Thế nào là chiến tranh thương mại? Chiến tranh thương mại có những đặc điểm nào? (Hình từ internet)
Chiến tranh thương mại là một tình huống mà các quốc gia áp đặt các biện pháp thương mại hạn chế lên nhau. Chủ yếu thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch như thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp hoặc các rào cản thương mại khác.
Mục đích của các biện pháp này thường là để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước, giảm thâm hụt thương mại hoặc gây áp lực kinh tế lên các quốc gia khác.
Chiến tranh thương mại thường được coi là một giải pháp ngắn hạn, nhưng có thể gây ra những tác động khá lớn và đa chiều đối với cả nền kinh tế của các quốc gia tham gia, cũng như nền kinh tế toàn cầu.
Dưới đây là một số đặc điểm chính của chiến tranh thương mại:
(1) Thuế quan và rào cản thương mại:
Các quốc gia tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại để giảm nhập khẩu từ nước ngoài.
Khi một quốc gia áp đặt thuế quan lên hàng hóa nhập khẩu, giá của những mặt hàng đó sẽ tăng lên. Điều này có thể làm tăng chi phí sống cho người tiêu dùng, đặc biệt là đối với các mặt hàng thiết yếu hoặc các sản phẩm không thể thay thế được.
(2) Biện pháp trả đũa:
Khi một quốc gia áp dụng biện pháp bảo hộ, quốc gia khác có thể trả đũa bằng cách áp dụng biện pháp tương tự, dẫn đến một vòng xoáy leo thang căng thẳng về thương mại.
(3) Ảnh hưởng kinh tế toàn cầu:
Chiến tranh thương mại có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, gây bất ổn thị trường và ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng quốc tế.
Khi các quốc gia bị hạn chế xuất khẩu sang các thị trường lớn, các ngành công nghiệp trong nước có thể gặp khó khăn, dẫn đến giảm sản xuất và giảm nhu cầu lao động, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thất nghiệp và nền kinh tế nói chung.
(4) Xung đột ngoại giao, chính trị:
Chiến tranh thương mại thường đi kèm với căng thẳng chính trị giữa các quốc gia liên quan.
Việc áp dụng các biện pháp trả đũa (như thuế quan) có thể dẫn đến xung đột hơn nữa, làm tổn hại đến quan hệ quốc tế và hợp tác trong các lĩnh vực khác như an ninh, môi trường hay các vấn đề toàn cầu khác.
Nội dung trên mang tính chất tham khảo
Theo khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh 41/2002/PL-UBTVQH10:
Đối xử tối huệ quốc trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ một nước so với hàng hóa tương tự nhập khẩu có xuất xứ từ nước thứ ba hoặc hàng hoá xuất khẩu đến một nước so với hàng hóa tương tự xuất khẩu đến nước thứ ba.
Cụ thể, là trong các Điều ước quốc tế về thương mại cũng như Luật thương mại quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc thường được thể hiện dưới dạng quy định cho các sản phẩm hàng hoá dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia đối tác được hưởng chế độ thương mại "không kém ưu đãi hơn chế độ ưu đãi nhất" mà quốc gia sở tại dành cho các những sản phẩm hàng hoá dịch vụ tương tự của bất kỳ quốc gia nào khác.
Căn cứ Điều 7 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002 quy định về phạm vi đối xử tối huệ quốc trong thương mại hàng hoá như sau:
Đối xử tối huệ quốc trong thương mại hàng hoá được áp dụng đối với:
(1) Thuế, các loại phí và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
(2) Phương thức thanh toán và việc chuyển tiền thanh toán cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
(3) Những quy định và thủ tục liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá;
(4) Thuế và các loại phí thu trực tiếp hoặc gián tiếp trong nước đối với hàng hoá nhập khẩu;
(5) Hạn chế định lượng và cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá;
(6) Các quy định khác của pháp luật có ảnh hưởng đến việc bán, chào bán, mua, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng hàng hoá tại thị trường trong nước.