Bản dịch này thuộc bản quyền THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Bạn được khai thác sử dụng cho công việc của riêng mình, nhưng không được sao chép, đăng lại trên bất cứ phương tiện nào.
CHƯƠNG 29
TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ VÀ QUY ĐỊNH CHUNG
1. Trong phạm vi Chương 2 (Nguyên tắc đối xử quốc gia và thị trường lưu thông hàng hoá), Chương 3 (Quy tắc xuất xứ và thủ tục xuất xứ), Chương 4 (Dệt may), Chương 5 (Hải quan và thuận lợi hóa thương mại), Chương 7 (Biện pháp vệ sinh dịch tễ), Chương 8 (Rào cản kỹ thuật đối với thương mại) và Chương 17 (Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền), Điều XX của GATT 1994 và Chú giải của nó, có sửa đổi bổ sung, là một phần không tách rời của Hiệp định này.1
2. Các bên công nhận rằng các biện pháp nêu tại Điều XX (b) của GATT 1994 bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường sống của con người, động vật, thực vật hay sức khỏe, và Điều XX (g) của GATT 1994 áp dụng cho các biện pháp liên quan đến việc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên sinh vật và phi sinh vật có thể bị cạn kiệt.
3. Trong phạm vi của Chương 10 (Thương mại dịch vụ xuyên biên giới), Chương 12 (Nhập cảnh tạm thời đối với doanh nhân), Chương 13 (Viễn thông), Chương 14 (Thương mại điện tử)2 và Chương 17 (Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền), các Khoản (a), (b) và (c) của Điều XIV của GATS, có sửa đổi bổ sung, là một phần không tách rời của Hiệp định này.3 Các bên công nhận rằng các biện pháp nêu tại Điều XIV (b) của GATS bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường sống của con người, động vật hoặc thực vật hay sức khỏe.
4. Hiệp định này không ngăn cản một Bên áp dụng các biện pháp, bao gồm cả việc duy trì hoặc tăng thuế quan, được Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO cho phép hoặc áp dụng biện pháp theo quyết định bởi ban hội thẩm giải quyết tranh chấp của một hiệp định thương mại tự do mà Bên áp dụng và bên bị áp dụng đều là thành viên.
Điều 29.2: Ngoại lệ về an ninh
Không có quy định nào của Hiệp định này:
(a) đòi hỏi một Bên phải cung cấp và cho phép tiếp cận thông tin mà việc tiết lộ được coi là trái với các lợi ích an ninh thiết yếu của mình; hoặc
(b) ngăn cản một Bên áp dụng những biện pháp cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến gìn giữ và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế hay bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu.
Điều 29.3: Biện pháp tự vệ tạm thời
1. Không có quy định nào của Hiệp định này ngăn cản một Bên áp dụng hoặc duy trì những biện pháp hạn chế liên quan đến thanh toán hoặc chuyển nhượng những giao dịch tài khoản vãng lai trong trường hợp cán cân thanh toán và tài chính đối ngoại gặp khó khăn nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gặp khó khăn nghiêm trọng.
2. Không có quy định nào của Hiệp định này ngăn cản một Bên áp dụng hoặc duy trì những biện pháp hạn chế liên quan đến thanh toán hoặc chuyển nhượng vốn:
(a) trong trường hợp cán cân thanh toán và tài chính đối ngoại gặp khó khăn nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gặp khó khăn nghiêm trọng; hoặc
(b) trong trường hợp đặc biệt việc thanh toán hoặc chuyển nhượng vốn gây ra hoặc đe dọa khó khăn nghiêm trọng về quản lý kinh tế vĩ mô.
3. Những biện pháp tự vệ được áp dụng hoặc duy trì theo khoản 1 và 2 phải:
(a) phù hợp với Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 10.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 10.4 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 11.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và Điều 11.4 (Quy chế tối huệ quốc);4
(b) phù hợp với Hiệp định của Quỹ tiền tệ Quốc tế;
(c) tránh những thiệt hại không cần thiết đến lợi ích thương mại, kinh tế và tài chính của Bên kia;
(d) không vượt quá mức cần thiết để giải quyết các trường hợp nêu tại khoản 1 hoặc 2;
(e) chỉ mang tính tạm thời và được loại bỏ dần khi các trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc 2 được cải thiện và không vượt quá thời hạn 18 tháng; tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, một Bên có thể gia hạn biện pháp tự vệ đó thêm một năm, bằng cách gửi thông báo bằng văn bản cho các Bên khác trong vòng 30 ngày kể từ ngày gia hạn; nếu sau khi tham vấn, hơn một nửa số thành viên không đồng ý đơn xin gia hạn phù hợp với điểm (c), (d) và (h) trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận thông báo, thì Bên đang áp dụng biện pháp hạn chế phải gỡ bỏ biện pháp đó, hoặc điều chỉnh biện pháp cho phù hợp với điểm (c), (d) và (h) và đề nghị các Bên khác xem xét lại trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận thông báo xin gia hạn;
(f) phù hợp với Điều 9.7 (Sung công và bồi thường);5
(g) không can thiệp vào khả năng thu hồi vốn của các nhà đầu tư trong lãnh thổ của Bên hạn chế đối với tài sản bị hạn chế, trong trường hợp hạn chế về luồng vốn; 6 và
(h) không được sử dụng biện pháp tự vệ để tránh điều chỉnh kinh tế vĩ mô cần thiết.
4. Các biện pháp tự vệ nêu tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng cho các khoản thanh toán hoặc chuyển nhượng đầu tư trực tiếp nước ngoài. 7
5. Một Bên sẽ nỗ lực để áp dụng hoặc duy trì biện pháp tự vệ định giá theo khoản 1 hoặc 2, và nếu biện pháp tự vệ đó không dựa trên giá, thì Bên đó phải giải thích lý do cho việc sử dụng hạn chế định lượng khi nó thông báo cho các Bên khác về các biện pháp tự vệ.
6. Đối với thương mại hàng hoá, Điều XII GATT 1994 và Bản Ghi nhớ về Quy định Cán cân thanh toán của GATT 1994, có sửa đổi bổ sung, được kết hợp thành và trở thành một phần của Hiệp định này. Bất kỳ biện pháp tự vệ được áp dụng hoặc duy trì theo khoản này sẽ không làm suy giảm các lợi ích liên quan dành cho các Bên khác theo Hiệp định này so với lợi ích dành cho một nước ngoài khối TPP.
7. Một Bên áp dụng hoặc duy trì các biện pháp tự vệ theo khoản 1, 2 hoặc 6 có trách nhiệm:
(a) thông báo bằng văn bản cho các Bên khác về các biện pháp tự vệ, bao gồm bất kỳ sự thay đổi nào, cùng với các lý do cho sự áp đặt của họ, trong vòng 30 ngày kể từ ngày được áp dụng;
(b) đệ trình một lộ trình hoặc các điều kiện cần thiết để loại bỏ các biện pháp tự vệ của Bên đó càng sớm càng tốt;
(c) kịp thời công bố các biện pháp tự vệ; và
(d) kịp thời tổ chức tham vấn với các Bên khác để xem xét các biện pháp được áp dụng hoặc duy trì.
(i) đối với chuyển nhượng vốn, kịp thời trả lời yêu cầu tham vấn về các biện pháp tự vệ áp dụng của một Bên, miễn là việc tham vấn không diễn ra bên ngoài phạm vi của Hiệp định này.
(ii) đối với hạn chế tài khoản vãng lai, nếu tham vấn liên quan đến các biện pháp được áp dụng không diễn ra trong khuôn khổ của Hiệp định WTO, Bên được yêu cầu phải nhanh chóng thực hiện tham vấn với các Bên quan tâm.
1. Trong phạm vi Điều này:
Cơ quan được chỉ định là:
(a) đối với Úc, là Bộ trưởng Ngân khố hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(b) đối với Brunei Darussalam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(c) đối với Canada, là Trợ lý Thứ trưởng Bộ Chính sách Thuế, Cục Tài chính;
(d) đối với Chile, là Thứ trưởng Bộ Tài chính (Subsecretario de Hacienda);
(e) đối với Nhật Bản, là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính; 8
(f) đối với Malaysia, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(g) đối với Mexico, là Bộ trưởng Bộ Tài chính và Tín dụng công (Secretario de Hacienda y Credito Publico);
h) đối với New Zealand, là Ủy viên Cục Doanh thu nội địa hoặc đại diện được ủy quyền của các Ủy viên;
(i) đối với Peru, là Tổng Cục trưởng Cục Kinh tế quốc tế, Cạnh tranh và Năng suất (Director de Asuntos de Economia Internacional, Competencia y Productividad del Ministerio de Economia y Finanzas);
(j) đối với Singapore, là Lãnh đạo cao cấp Chính sách Thuế, Bộ Tài chính;
(k) đối với Hoa Kỳ, là Trợ lý Bộ trưởng Tài chính (chính sách thuế); và
(l) đối với Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính,
hoặc bất kỳ người kế nhiệm của các cơ quan được chỉ định được thông báo bằng văn bản cho các bên khác;
công ước thuế là công ước về tránh đánh thuế hai lần hoặc các hiệp định quốc tế về thuế khác; và
thuế và các biện pháp về thuế bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, nhưng không bao gồm:
(a) "thuế hải quan" theo quy định tại Điều 1.3 (Định nghĩa chung); hoặc là
(b) các biện pháp được liệt kê trong điểm (b) và (c) của định nghĩa đó.
2. Trừ trường hợp quy định tại Điều này, không có quy định nào trong Hiệp định này áp dụng các biện pháp về thuế.
3. Quy định của Hiệp định này không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các Bên trong các công ước về thuế khác. Trường hợp không thống nhất giữa Hiệp định này và bất kỳ công ước về thuế khác, thì ưu tiên áp dụng công ước.
4. Trong trường hợp hai hay nhiều Bên tham gia một công ước về thuế mà có nội dung mâu thuẫn giữa Hiệp định này và công ước đó thì vấn đề đó sẽ được đưa đến Cơ quan được chỉ định của các Bên để xem xét.Cơ quan được chỉ định của các Bên phải xác định sự tồn tại và mức độ của mâu thuẫn trong vòng 6 tháng kể từ ngày nhận yêu cầu xem xét. Thời hạn này có thể gia hạn tối đa 12 tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu xem xét nếu những Cơ quan được chỉ định đó đồng ý.Trước khi hết thời hạn sáu tháng hoặc một thời hạn khác có sự đồng ý của các Cơ quan được chỉ định, các Bên không được áp dụng các biện pháp làm phát sinh các vấn đề theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) hoặc Điều 9.18 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài). Ban hội thẩm hoặc tòa án được thành lập để xem xét một vụ tranh chấp liên quan đến một biện pháp đánh thuế bắt buộc phải thừa nhận quyết định về giải quyết mâu thuẫn của Các Cơ quan được chỉ định của các Bên nêu ra tại khoản này.
5. Bất kể quy định ở khoản 3:
(a) Điều 2.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và những quy định khác của Hiệp định này có nội dung hướng dẫn thực hiện Điều 2.3 sẽ áp dụng đối với các biện pháp về thuế với cùng phạm vi như Điều III của GATT 1994; và
(b) Điều 2.15 (Thuế xuất khẩu, thuế hoặc phí khác) được áp dụng đối với các biện pháp về thuế.
6. Trong phạm vi khoản 3:
(a) Điều 10.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và Điều 11.6.1 (Thương mại xuyên biên giới) được áp dụng đối với các biện pháp đánh thuế thu nhập, tăng vốn, vốn chịu thuế của các tập đoàn, hoặc giá trị đầu tư hoặc tài sản9 (nhưng không đánh thuế việc chuyển nhượng đầu tư hoặc tài sản đó), có liên quan đến việc mua hoặc tiêu thụ các dịch vụ đặc biệt, tuy nhiên quy định tại khoản này không ngăn cản một Bên đòi hỏi việc nhận hoặc tiếp tục nhận lợi thế liên quan đến việc mua bán hay tiêu thụ dịch vụ đặc biệt đó theo yêu cầu cung cấp dịch vụ trong lãnh thổ của mình;
(b) Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 10.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 10.4 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 11.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 11.4 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 11.6.1 (Thương mại xuyên biên giới) và Điều 14,4 (Không phân biệt đối xử sản phẩm kỹ thuật số) sẽ được áp dụng cho tất cả các biện pháp về thuế, trừ thuế đánh vào thu nhập, tăng vốn, vốn chịu thuế của các tập đoàn, về giá trị đầu tư hoặc tài sản10 (nhưng không đánh thuế việc chuyển nhượng đầu tư hoặc tài sản đó), hoặc thuế đánh lên bất động sản, nhận thừa kế, quà tặng và thừa kế bỏ qua thế hệ; và
(c) Điều 14.4 (Không phân biệt đối xử đối với sản phẩm kỹ thuật số) được áp dụng các biện pháp đánh thuế trên thu nhập, tăng vốn, trên thu nhập chịu thuế của các tập đoàn, hoặc trên giá trị đầu tư hoặc tài sản (nhưng không phải về việc chuyển nhượng đầu tư hoặc tài sản đó), có liên quan đến việc mua hoặc tiêu thụ các sản phẩm kỹ thuật số đặc biệt, tuy nhiên quy định trong khoản này ngăn cản một Bên nhận hoặc tiếp tục nhận được một lợi thế liên quan đến việc mua bán hoặc tiêu thụ các sản phẩm kỹ thuật số đặc biệt về các yêu cầu để cung cấp các sản phẩm kỹ thuật số trong lãnh thổ của mình, nhưng điểm (a), (b) và (c) của Điều này không áp dụng đối với:
(d) nghĩa vụ tối huệ quốc mà một bên chấp thuận đối với một lợi thế theo công ước về thuế;
(e) quy định không phù hợp của bất kỳ biện pháp về thuế hiện hành;
(f) việc tiếp tục áp dụng hoặc nhanh chóng thay đổi điều khoản không phù hợp với các biện pháp về thuế hiện hành;
(g) sửa đổi quy định không phù hợp của các biện pháp về thuế hiện hành trong phạm vi mà việc sửa đổi vẫn phù hợp các Điều khoản khác tại thời điểm sửa đổi;
(h) việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp về thuế mới nhằm đảm bảo việc đánh thuế hoặc thu thuế công bằng hoặc hiệu quả, bao gồm việc đánh thuế và thu thuế dựa vào nơi cư trú của người nộp thuế, với điều kiện là các biện pháp đánh thuế không tự ý phân biệt đối xử giữa con người, hàng hóa, dịch vụ của các Bên; 11
(i) các điều khoản đòi hỏi được nhận hoặc tiếp nhận một lợi thế liên quan đến việc đóng góp hay thu nhập của ủy thác lương hưu, kế hoạch hưu trí, quỹ hưu trí hay thỏa thuận đóng góp lương hưu, hưu trí và lợi ích tương tự, với điều kiện Bên đó phải liên tục duy trì thẩm quyền, quy định hoặc giám sát đối với ủy thác, kế hoạch, quỹ hoặc thỏa thuận khác; hoặc là
(j) những loại thuế đặc biệt đánh vào phí bảo hiểm bởi các Bên khác theo quy định tại điểm (e), (f) hoặc (g).
7. Điều 9.10.2 (Yêu cầu thực hiện), Điều 9.10.3 và Điều 9.10.5 áp dụng đối với các biện pháp đánh thuế trong phạm vi khoản 3 và không ảnh hưởng quyền và nghĩa vụ của các Bên theo khoản 5.
8. Điều 9.8 (Sung công và bồi thường) sẽ áp dụng các biện pháp về thuế. Tuy nhiên, không có nhà đầu tư được viện dẫn Điều 9.8 (Sung công và bồi thường) làm cơ sở để yêu cầu bồi thường nếu biện pháp được áp dụng không phải được xác định là sung công theo quy định tại khoản này. Nhà đầu tư chỉ được viện dẫn Điều 9.8 (Sung công và bồi thường) đối với một biện pháp về thuế khi đã yêu cầu Cơ quan được chỉ định của Bên nguyên đơn (nhà đầu tư có trụ sở chính) và Bên bị đơn xem xét biện pháp về thuế có phải là một hình thức sung công, tại thời điểm mà nó thông báo ý định của mình theo Điều 9.19 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài). Nếu Cơ quan được chỉ định không đồng ý để xem xét vấn đề hay, đã đồng ý xem xét nó nhưng không đồng ý rằng các biện pháp không phải là sung công trong thời hạn sáu tháng kể từ khi nhà đầu tư gửi yêu cầu, các nhà đầu tư có thể nộp yêu cầu bồi thường của mình đến trọng tài theo Điều 9.19 (Trình tự khởi kiện theo thủ tục trọng tài).
9. Không có điều khoản nào trong Hiệp định này ngăn cản Singapore áp dụng các biện pháp về thuế để giải quyết các mục tiêu chính sách công cộng của Singapore phát sinh trong những điều kiện cụ thể bắt buộc, miễn là các biện pháp này không hạn chế thương mại quá mức cần thiết.
Điều 29.5: Biện pháp kiểm soát thuốc lá12
Một Bên có thể từ chối trao lợi ích cho Bên khác theo Phần B của Chương 9 (Đầu tư) khi gửi đơn kiện biện pháp kiểm soát thuốc lá13 của mình. Đơn kiện đó sẽ không giải quyết theo thủ tục trọng tài theo Phần B của Chương 9 (Đầu tư) nếu Bên đó đã từ chối trao lợi ích. Nếu một Bên không từ chối trao lợi ích đối với đơn kiện trước khi thủ tục trọng tài tiến hành theo mục B chương 9 (Đầu tư), thì Bên đó có thể từ chối trong quá trình diễn ra thủ tục trọng tài. Nhằm giải thích rõ hơn, nếu một Bên từ chối trao lợi ích khi gửi đơn kiện, đơn kiện đó sẽ bị bác.
1. Miễn là các biện pháp tự vệ không được sử dụng như một phương tiện phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc không chính đáng đối với người của các Bên khác hoặc là một sự hạn chế trá hình đối với thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư, Hiệp định này sẽ ngăn cản việc áp dụng các biện pháp tự vệ của New Zealand nếu nước này xét thấy cần phải đối xử thuận lợi với Maori đối với các vấn đề của Hiệp định này, bao gồm cả việc hoàn thành các nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước Waitangi.
2. Các Bên đồng ý rằng việc giải thích của Hiệp ước Waitangi, bao gồm cả bản chất của các quyền và nghĩa vụ phát sinh, không bị điều chỉnh bởi các quy định giải quyết tranh chấp của Hiệp định này. Nói cách khác, Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) không áp dụng đối với Điều này. Ban hội thẩm có thể được thành lập theo Điều 28.7 (Thành lập ban hội thẩm) để xác định liệu biện pháp tự vệ áp dụng theo khoản 1 có phù hợp với quyền của một Bên trong Hiệp định này hay không.
Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là yêu cầu một Bên phải cung cấp hoặc cho phép truy cập vào thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể trái với pháp luật của mình hoặc sẽ cản trở việc thực thi pháp luật, hoặc trái với lợi ích công cộng, hoặc làm phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân.
Điều 29.8: Tri thức truyền thống, biểu hiện văn hóa dân gian và nguồn gen
Trong phạm vi nghĩa vụ quốc tế của các Bên, mỗi Bên có thể thiết lập các biện pháp thích hợp để tôn trọng, giữ gìn và phát huy tri thức truyền thống và các biểu hiện văn hóa dân gian.
1 Trong phạm vi chương 17 (Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền), Điều XX của GATT 1994 (Chú giải kèm theo), có sửa đổi bổ sung, là một phần không tách rời của Hiệp định này, chỉ liên quan đến những biện pháp mà một Bên (bao gồm cả việc áp dụng doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp độc quyền) gây ảnh hưởng đến việc mua bán và sản xuất hàng hóa hoặc gây ảnh hưởng đến những hoạt động liên quan đến sản xuất hàng hóa.
2 Khoản này không ảnh hưởng đến việc một sản phẩm kỹ thuật số được phân loại là hàng hóa hay dịch vụ.
3Trong phạm vi chương 17 (Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền), Điều XIV của GATS (và Chú giải kèm theo) với những sửa đổi phù hợp là một phần không tách rời của Hiệp định này, chỉ liên quan đến những biện pháp mà một Bên (bao gồm cả việc áp dụng doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp độc quyền) gây ảnh hưởng đến việc mua bán hàng hóa, dịch vụ hoặc gây ảnh hưởng đến những hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa, dịch vụ.
4Không ảnh hưởng đến việc giải thích chung của Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 10.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 10.4 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 11.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và Điều 11.4 (Quy chế tối huệ quốc), việc các nhà đầu tư có nơi cư trú khác nhau được áp dụng hoặc duy trì biện pháp tự vệ theo khoản 1 hoặc 2 khác nhau không có nghĩa là biện pháp tự vệ đó không phù hợp với Điều 9.4 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 9.5 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 10.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia), Điều 10.4 (Quy chế tối huệ quốc), Điều 11.3 (Nguyên tắc đối xử quốc gia) và Điều 11.4 (Quy chế tối huệ quốc)
5Chú ý, các biện pháp tự vệ được nêu tại khoản 1 hoặc 2 có thể là hình thức quản lý không phân biệt đối xử do một Bên được xây dựng và áp dụng để bảo vệ các lợi phúc lợi công cộng hợp pháp như nêu tại Phụ lục 9 B (3) (b) (Sung công).
6 phân biệt Thuật ngữ “"tài sản bị hạn chế" trong điểm này chỉ đề cập đến tài sản được đầu tư trên lãnh thổ của một Bên áp dụng biện pháp hạn chế bởi một nhà đầu tư của một Bên bị hạn chế việc chuyển nhượng tài sản đó ra khỏi lãnh thổ của Bên áp dụng biện pháp hạn chế.
7 Trong phạm vi Điều này, "đầu tư trực tiếp nước ngoài" có nghĩa là một loại hình đầu tư của nhà đầu tư của một Bên tại lãnh thổ của một Bên khác, áp dụng đó nhà đầu tư thực hiện quyền sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc ảnh hưởng đáng kể ảnh đến việc quản lý của một doanh nghiệp hoặc loại hình đầu tư trực tiếp khác có xu hướng được thực hiện để thiết lập một mối quan hệ lâu dài. Ví dụ, việc sở hữu ít nhất 10 phần trăm số quyền biểu quyết của một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian ít nhất 12 tháng nói chung sẽ được xem là đầu tư nước ngoài trực tiếp.
8Nhằm hỗ trợ quá trình tham vấn giữa các Cơ quan được chỉ định của các Bên có liên quan, đầu mối liên lạc của Nhật Bản là Bộ Tài chính.
9 Điều này không ảnh hưởng đến các phương pháp xác định giá trị đầu tư hoặc tài sản đó theo Luật tương ứng của các Bên.
10 Điều này không ảnh hưởng đến các phương pháp xác định giá trị đầu tư, tài sản theo pháp luật tương ứng của các Bên.
11 Điểm này phải được giải thích bằng cách tham chiếu đến các chú thích của Điều XIV (d) của GATS nếu Điều này không chỉ áp dụng các dịch vụ hoặc các loại thuế trực tiếp.
12 Nhằm giải thích rõ hơn, điều này không ảnh hưởng đến:
(i) việc áp dụng Điều 9.14 (Từ chối lợi ích); hoặc
(ii) quyền của một Bên liên quan đến biện pháp kiểm soát thuốc lá theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp).
13 Một biện pháp kiểm soát thuốc lá là biện pháp do một Bên áp dụng liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thuốc lá sản xuất (bao gồm cả các sản phẩm làm từ hoặc có nguồn gốc từ thuốc lá), phân phối, nhãn mác, bao bì, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, mua bán, hoặc sử dụng, cũng như các biện pháp cưỡng chế, chẳng hạn như kiểm tra, lưu trữ hồ sơ, và yêu cầu báo cáo. Nhằm giải thích rõ hơn, một biện pháp áp dụng đối với thuốc lá sợi không thuộc sở hữu của nhà sản xuất thuốc lá hoặc không phải là nguyên liệu của thuốc lá sản xuất thì không được xem là biện pháp kiểm soát thuốc lá.