Đề xuất hướng dẫn BLHS về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (Ảnh minh họa)
Theo đó, hướng dẫn áp dụng quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể như sau:
(1) Trường hợp người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng thu phí của người vay (như phí hợp đồng, phí tư vấn, phí dịch vụ, phí liên lạc...) thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để xác định lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự.
(2) Trường hợp người môi giới (trung gian) câu kết với người cho vay thu phí dịch vụ của người vay để cùng thu lợi bất chính thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để tính lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự.
(3) Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
(4) Trường hợp người trung gian thực hiện hành vi tư vấn, môi giới... hoặc có hành vi khác tham gia vào quá trình cho vay lãi nặng, đòi nợ (như dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, góp vốn ...) mà biết rõ để thực hiện việc cho vay lãi nặng mà vẫn thực hiện thì bị xử lý hình sự với vai trò là đồng phạm trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
(5) Trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như ép buộc lấy tài sản, đánh người vay...) thì tùy từng trường hợp họ phải xử lý trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng.
Ví dụ: A đánh B gãy tay để đòi lại số tiền đã cho vay lãi nặng. A phạm tội cố ý gây thương tích và tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Xem chi tiết tại dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 201 Bộ luật Hình sự.
Toàn văn dự thảo Nghị quyết |
Châu Thanh