Đề xuất nâng mức doanh thu chịu thuế TNCN với thu nhập từ kinh doanh (Hình từ internet))
Theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007, đối với thu nhập từ kinh doanh cũng được áp dụng các khoản giảm trừ khi tính thuế TNCN.
Tuy nhiên, đối với hộ, cá nhân kinh doanh, quy trình tính thuế này là phức tạp do đại bộ phận hộ, cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, không xác định được chi phí, thu nhập chịu thuế nên cơ quan thuế phải thực hiện ấn định thu nhập, sau đó lại xác định thu nhập tính thuế dựa trên cơ sở giảm trừ gia cảnh để áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần như cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cải cách thủ tục hành chính, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật thuế và các văn bản hướng dẫn về thuế (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2015) quy định:
Đối với hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì không phải nộp thuế TNCN;
Đối với hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm nộp thuế TNCN theo tỷ lệ ấn định trên doanh thu theo từng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Quá trình thực hiện có ý kiến cho rằng mức 100 triệu đồng/năm để xác định cá nhân không thuộc diện nộp thuế TNCN là không phù hợp, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo tỷ lệ trên doanh thu không được giảm trừ gia cảnh.
Trong khi đó, từ kỳ tính thuế năm 2020, mức giảm trừ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm) đối với bản thân người nộp thuế, 4,4 triệu đồng/tháng đối với mỗi người phụ thuộc.
Thuế đối với thu nhập từ kinh doanh của cá nhân không cư trú được xác định bằng doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định nhân với thuế suất, cụ thể:
- Doanh thu là toàn bộ số tiền phát sinh từ việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ bao gồm cả chi phí do bên mua hàng hoá, dịch vụ trả thay cho cá nhân không cư trú mà không được hoàn trả.
Trường hợp thoả thuận hợp đồng không bao gồm thuế thu nhập cá nhân thì doanh thu tính thuế phải quy đổi là toàn bộ số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được dưới bất kỳ hình thức nào từ việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ tại Việt Nam không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Thuế suất đối với thu nhập từ kinh doanh quy định đối với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh như sau:
+ 1% đối với hoạt động kinh doanh hàng hoá;
+ 5% đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ;
+ 2 % đối với hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải và hoạt động kinh doanh khác.
Nội dung này được đề cập tại dự thảo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024; điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023.
Dự thảo |
Theo đó, để phù hợp với sự biến động của giá cả, thống nhất với ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh dự kiến điều chỉnh được nêu trong Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật thuế giá trị gia tăng đang thực hiện:
Đề xuất nâng mức doanh thu để xác định đối tượng không phải nộp thuế TNCN lên cao hơn so với mức đang được quy định tại Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 (thống nhất với ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh).
Việc điều chỉnh mức doanh thu để xác định cá nhân kinh doanh không thuộc diện nộp thuế TNCN đảm bảo sự phù hợp với sự biến động của giá cả và quy định về mức giảm trừ gia cảnh hiện hành, thống nhất với ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh.
Hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu thấp sẽ không phải nộp thuế.
Tuy nhiên, việc nâng mức doanh thu để xác định đối tượng không phải nộp thuế TNCN lên cao hơn so với mức đang được quy định hiện nay sẽ làm giảm nguồn thu NSNN.