Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 446/447 đại biểu Quốc hội có mặt tán thành, chiếm 94,29% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) với đại đa số đại biểu tán thành.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) gồm 5 Chương, 45 Điều. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2026.
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội Dương Thanh Bình trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi).
Về thẩm quyền và hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH (các Điều 13, 14, 16 và 17), có ý kiến đề nghị không quy định Quốc hội, UBTVQH tổ chức đoàn giám sát để tiến hành giám sát chuyên đề, chỉ tập trung hoạt động này tại Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình cho biết, qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật hiện hành cho thấy, việc tổ chức Đoàn giám sát của Quốc hội, UBTVQH để tiến hành giám sát chuyên đề đã đạt nhiều kết quả rất tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, đặc biệt là đối với những chuyên đề lớn, phạm vi rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực…
Trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Chính phủ và các cơ quan có liên quan đều cơ bản nhất trí tiếp tục kế thừa quy định của Luật hiện hành về nội dung này. Bên cạnh đó, để phù hợp với chủ trương tăng cường phân cấp, phân quyền, bảo đảm tính linh hoạt trong thực hiện các hoạt động giám sát của Quốc hội, dự thảo Luật đã bổ sung quy định Quốc hội có thể giao UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; UBTVQH có thể giao Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức giám sát một số chuyên đề trong chương trình giám sát của Quốc hội, UBTVQH và báo cáo kết quả giám sát để Quốc hội, UBTVQH xem xét, quyết định. Do đó, xin Quốc hội cho giữ như quy định của dự thảo Luật.
Về thẩm quyền và hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH (các Điều 22, 23 và 24), có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về “các cơ quan khác ở địa phương” tại khoản 1 Điều 22 để thống nhất trong thực hiện.
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình cho biết, đối với các chủ thể giám sát tại địa phương như Đoàn ĐBQH, Hội đồng nhân dân (HĐND), Thường trực HĐND, Ban của HĐND thì dự thảo Luật quy định thẩm quyền giám sát và liệt kê một số cơ quan là chủ thể chịu sự giám sát như Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án dân sự (là các cơ quan có báo cáo công tác hằng năm trước HĐND) và quy định khái quát các cơ quan khác ở địa phương để bảo đảm tính bao quát và thống nhất với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Các cơ quan khác ở địa phương tùy từng chủ thể giám sát có thể bao gồm cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban nhân dân, các tổ chức thuộc cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc đặt tại địa phương (như Công an, thuế…) và tùy từng địa phương, từng cấp có thể có những cơ quan khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay một số cơ quan vẫn đang trong quá trình sắp xếp, kiện toàn nên nếu quy định cụ thể ngay trong Luật sẽ không bảo đảm tính ổn định. Vì vậy, tiếp thu ý kiến này, để bảo đảm khả thi, thống nhất thực hiện trên thực tiễn, khoản 3 Điều 44 dự thảo Luật đã bổ sung quy định giao UBTVQH quy định chi tiết về “cơ quan khác ở địa phương” tại các điều 22, 27, 30 và 33 của Luật này.
Có ý kiến đề nghị quy định tại điểm c khoản 1 Điều 23 theo hướng: giao cho Ủy ban Dân nguyện và Giám sát thực hiện giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri đối với các cơ quan, tổ chức ở trung ương; Đoàn ĐBQH giám sát với các cơ quan, tổ chức ở địa phương để tránh trùng lặp, chồng chéo. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý điểm c khoản 1 Điều 23 dự thảo Luật quy định rõ Đoàn ĐBQH “Tham gia giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở trung ương theo phân công của UBTVQH” để phù hợp với thẩm quyền giám sát của Đoàn ĐBQH.
Về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 37), một số ý kiến tán thành phương án 1 của dự thảo Luật trình Quốc hội cho ý kiến quy định thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND. Ý kiến khác đề nghị cân nhắc việc quy định hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND; trường hợp quy định trong dự thảo Luật thì sửa đổi khoản 4 Điều 29 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương để bảo đảm thống nhất.
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình cho biết, để phù hợp với thực tiễn hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND và bối cảnh tình hình mới khi quy mô địa bàn cấp tỉnh, cấp xã hiện nay đã mở rộng hơn trước, kế thừa một phần quy định của Luật hiện hành, trên cơ sở tiếp thu ý kiến đa số ĐBQH, dự thảo Luật đã được chỉnh lý, quy định về hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND tại Điều 37 dự thảo Luật như sau: “Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương khi được Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp giao; báo cáo kết quả giám sát để Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.”.
Theo quy định này, Tổ đại biểu HĐND chỉ thực hiện hoạt động giám sát khi được HĐND, Thường trực HĐND giao; không phải là thẩm quyền giám sát độc lập của Tổ đại biểu HĐND, nên không dẫn tới mâu thuẫn với Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Mặt khác, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 chỉ quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền thành lập Tổ đại biểu HĐND mà không quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ đại biểu HĐND. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Tổ đại biểu HĐND hiện nay đang được quy định cụ thể tại một số văn bản dưới luật. Do đó, việc dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của Tổ đại biểu HĐND thực hiện giám sát khi được HĐND, Thường trực HĐND giao không dẫn tới phải sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Về hiệu lực thi hành (Điều 44), có ý kiến đề nghị cân nhắc, quy định Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2026 để bảo đảm đáp ứng yêu cầu về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tiếp thu ý kiến này, để đáp ứng yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm kịp thời áp dụng Luật ngay từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý khoản 1 Điều 44, quy định thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật từ ngày 01 tháng 3 năm 2026.
Bích Ngọc - Vũ Hiếu - Cao Hoàng
Theo Cổng TTĐT Quốc hội
Link bài viết: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=97475
Ngày đăng: 10/12/2025