Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 425/436 đại biểu Quốc hội có mặt tán thành, chiếm 89,85% tổng số đại biểu. Như vậy, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Phục hồi, phá sản.
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội đã nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý và giải trình dự án Luật Phục hồi, phá sản.
Về tên gọi của Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp thu và chỉnh lý tên gọi của Luật là “Luật Phục hồi, phá sản” theo đa số ý kiến của ĐBQH. Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật khi thay đổi tên gọi của Luật sẽ dẫn tới phải sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, dự thảo Luật đã bổ sung một khoản tại Điều 86 theo hướng bao quát, toàn diện mà không phải rà soát, sửa đổi đối với từng văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
Về trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm chi phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản (Điều 20), UBTVQH xin báo cáo: Thực tiễn giải quyết vụ việc phá sản tại các Tòa án nhân dân cho thấy chi phí phá sản trong trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm là không lớn. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 (Luật hiện hành) đã có quy định theo hướng không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn) đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 chưa quy định nguồn kinh phí để bảo đảm tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp miễn này dẫn đến điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản là không có kinh phí để chi trả chi phí phá sản.
Do đó, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi xác định nguồn chi trả chi phí phá sản trong các trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn), tại khoản 3 Điều 20 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ do ngân sách nhà nước bảo đảm đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn, cơ quan quản lý thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản (hoặc còn tài sản nhưng không thanh lý, thu hồi được hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tạm ứng chi phí phá sản, thanh toán chi phí phá sản). Tiền tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp này sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 và nhằm góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư, kinh doanh, tại khoản 3 Điều 38 của dự thảo Luật đã chỉnh lý như sau: “3. Cơ quan quản lý thuế phải nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật Quản lý thuế. Chính phủ quy định điều kiện nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản.”.
Về thẩm quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản, dự thảo Luật đã được tiếp thu theo hướng cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi đã thông báo đôn đốc đối với khoản chậm, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế nhưng không có phản hồi trong 03 năm liên tiếp gần nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
Liên quan đến thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản (Điều 16, Điều 41, Điều 60 và Điều 67), UBTVQH đề nghị giữ nguyên quyền kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát như quy định tại các Điều 16, 41, 60 và 67 của dự thảo Luật đã trình Quốc hội vì vẫn bảo đảm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát, bảo đảm tính đúng đắn của việc giải quyết vụ việc của Tòa án bằng cơ chế giải quyết kiến nghị; đồng thời, vừa bảo đảm giải quyết vụ việc phá sản nhanh gọn, tiết kiệm chi phí phá sản, nhân lực tham gia theo yêu cầu của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Về giao dịch có thỏa thuận thanh toán ròng, UBTVQH xin tiếp thu theo hướng giao cho Bộ trưởng Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam và thủ trưởng các cơ quan có liên quan quy định trong trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, đề nghị Chính phủ khẩn trương chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao để ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn nội dung này để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các giao dịch có thỏa thuận thanh toán ròng.
Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 88), UBTVQH đề nghị giữ quy định chuyển tiếp đối với vụ việc phá sản đã được thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa giải quyết thì được áp dụng quy định của Luật này để bảo đảm đáp ứng yêu cầu tại Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời tháo gỡ được điểm nghẽn dẫn đến không giải quyết được các vụ việc đang tồn đọng.
Bích Ngọc - Cao Hoàng - Vũ Hiếu
Theo Cổng TTĐT Quốc hội
Link bài viết: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=97523
Ngày đăng: 11/12/2025