Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động (ảnh minh họa).
**Đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng
NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
(1) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
(2) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
(3) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
(4) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
(5) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
(6) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
(7) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Tuy nhiên, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, NLĐ phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
- Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm (1), (2), (3) và (7).
- Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp (4) và (5).
- Đối với trường hợp (6), thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
**Đối với NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn: NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải có lý do, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày;
Trừ trường hợp lao động nữ mang thai có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì thời hạn báo trước theo thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
Thanh Lợi