Pháp luật có cho phép lấy tên người khác để đăng ký nhãn hiệu?
Về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Thụy Hân - Phụ trách Mạng cộng đồng ngành luật, công ty TNHH THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:
Trước tiên, chúng ta cần xác định nhãn hiệu là gì?
Theo khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Trong đó, dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải là những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Tiếp theo cần làm rõ điều kiện để nhãn hiệu được bảo hộ.
Căn cứ Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu được bảo hộ phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
- Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Luật sư cũng lưu ý các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ.
Căn cứ theo các điều khoản trên thì tổ chức, cá nhân có thể tiến hành nộp đơn yêu cầu bảo hộ cho nhãn hiệu có chứa tên riêng người khác chỉ cần tên được bảo hộ không có dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ.
Do đó, việc lấy tên của người khác để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, nếu việc sử dụng tên riêng người khác đăng ký bảo hộ nhãn hiệu mà làm cho người tiêu dùng nghĩ rằng nhãn hiệu đó do người đó cung cấp hay thuộc sở hữu của họ mà thực tế lại không phải như vậy thì việc này có thể được xem là có dấu hiệu gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng theo khoản 5 Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ.