Theo đó, quy định về phân chia nhóm mỏ trong thăm dò khoáng sản đối với từng loại khoáng sản rắn cụ thể như sau:
- Khi phân chia nhóm mỏ trong thăm dò khoáng sản yêu cầu dựa trên các căn cứ sau đây:
+ Hình dạng, kích thước, thế nằm các thân quặng, mức độ ổn định về chiều dày, biến đổi hàm lượng các thành phần chính và mức độ phức tạp về cấu trúc địa chất mỏ;
+ Chỉ số định lượng đánh giá mức độ biến đổi chiều dày theo công trình, hàm lượng các thân quặng theo mẫu đơn (trong ranh giới thân quặng) và điều kiện địa chất khai thác mỏ;
+ Lập luận, đánh giá cụ thể đối với các thân quặng chính, chiếm không dưới 70% trữ lượng của mỏ. Phân chia nhóm mỏ trong thăm dò khoáng sản được dự kiến trong Đề án thăm dò khoáng sản và được xác định trong quá trình thăm dò, trường hợp có sự thay đổi thì thực hiện điều chỉnh nhóm mỏ, phương pháp và khối lượng thăm dò phù hợp theo diễn biến thực tế ở mỏ.
- Nhóm mỏ trong thăm dò khoáng sản được phân thành các nhóm sau:
+ Nhóm mỏ đơn giản (I);
+ Nhóm mỏ tương đối phức tạp (II);
+ Nhóm mỏ phức tạp (III);
+ Nhóm mỏ rất phức tạp (IV).
- Điều kiện để phân chia, xác định nhóm mỏ trong thăm dò khoáng sản:
+ Nhóm mỏ đơn giản (I): gồm những mỏ hoặc một phần mỏ lớn, có cấu trúc địa chất đơn giản với các thân quặng dạng giả tầng, dạng via nằm ngang hoặc dốc thoải;
Các thân quặng có hình dạng đơn giản, hệ số chứa quặng từ 0,8 đến 1,0; chiều dày ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình không lớn hơn 40%; hàm lượng các thành phần có ích chính phân bố đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn không lớn hơn 40%;
+ Nhóm mỏ tương đối phức tạp (II): gồm những mỏ hoặc một phần mỏ từ lớn đến trung bình, có cấu trúc địa chất tương đối phức tạp, với các thân quặng có hình dạng tương đối đơn giản đến phức tạp; thân quặng dạng vỉa, thấu kính,...;
Chiều dày thân quặng tương đối ổn định đến không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình từ trên 40% đến 80%; hàm lượng các thành phần có ích chính phân bố từ tương đối đồng đều đến không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn từ trên 40% đến 100% và hệ số chứa quặng từ 0,6 đến 0,8;
+ Nhóm mỏ phức tạp (III): gồm những mỏ hoặc một phần mỏ từ nhỏ đến trung bình, có cấu trúc địa chất phức tạp với các thân quặng dạng vỉa, thấu kính, chuỗi thấu kính, dạng ổ, dạnh cột, dạng ống....;
Hình dạng các thân quặng rất phức tạp, chiều dày không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình từ trên 80% đến 100%; hàm lượng các thành phần có ích chính phân bố không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn từ trên 100% đến 150%; hệ số chứa quặng từ 0,4 đến 0,6;
- Nhóm mỏ rất phức tạp (IV): gồm những mỏ hoặc một phần mỏ nhỏ, có cấu trúc địa chất rất phức tạp với các thân quặng kích thước nhỏ đến rất nhỏ, dạng mạch, mạng mạch, thấu kính, chuỗi thấu kính, dạng cột, dạng ổ...;
Hình dạng thân quặng rất phức tạp, chiều dày rất không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình trên 100%; hàm lượng các thành phần có ích chính biến đổi rất không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn trên 150%; hệ số chứa quặng dưới 0,4.
Thông tư 40/2025/TT-BNNMT có hiệu lực từ ngày 02/7/2025.