Đã có dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (Hình từ internet)
![]() |
Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo |
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025/QH15 và các Nghị định hướng dẫn có liên quan, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Trí tuệ nhân tạo (sau đây gọi tắt là dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo).
Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo quy định về hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan; và quản lý nhà nước đối với các hoạt động trí tuệ nhân tạo được thực hiện tại Việt Nam hoặc có tác động đến người sử dụng, tổ chức tại Việt Nam.
Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo không áp dụng đối với:
- Hoạt động đào tạo, nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm hoàn toàn trong phạm vi nội bộ, không gây ảnh hưởng đến người sử dụng, bên thứ ba hoặc môi trường bên ngoài, chưa cung cấp sản phẩm, dịch vụ ra thị trường;
- Hệ thống trí tuệ nhân tạo được phát triển, triển khai, sử dụng riêng cho mục đích quốc phòng, an ninh, tình báo và cơ yếu.
- Hệ thống trí tuệ nhân tạo và các mô hình trí tuệ nhân tạo được phát triển hoặc sử dụng cho mục đích nghiên cứu, đào tạo và phát triển khoa học.
Trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo được phát triển hoặc sử dụng cho cả mục đích quy định tại Khoản 2 Điều 1 dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo và mục đích dân sự, thì các hoạt động, chức năng phục vụ mục đích dân sự khi đưa ra thị trường vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo.
Theo đó, tại Điều 4 dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo có quy định mọi hoạt động liên quan đến hệ thống trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Lấy con người làm trung tâm: Hệ thống trí tuệ nhân tạo phải phục vụ và hỗ trợ con người, tôn trọng nhân phẩm, quyền tự do, quyền riêng tư và các giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc.
- Trách nhiệm và kiểm soát của con người: Con người phải giữ quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm cuối cùng đối với mọi quyết định, hành vi và hậu quả phát sinh trong quá trình thiết kế, phát triển, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo.
- An toàn, công bằng và minh bạch: Hệ thống trí tuệ nhân tạo phải được phát triển và vận hành an toàn, tin cậy, bảo mật, công bằng, không phân biệt đối xử và minh bạch, tuân thủ các nguyên tắc đạo đức chi tiết được quy định tại Chương V của Luật này
- Tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức: Hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp và sử dụng trí tuệ nhân tạo phải tuân thủ Hiến pháp 2013, pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời bảo đảm các chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quân và giá trị văn hóa Việt Nam, không vì phạm đạo đức xã hội, không gây chia rẽ, kích động thù hận hoặc phân biệt đối xử. Tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thực hiện Khung đạo đức trí tuệ nhân tạo quốc gia do Chính phủ ban hành
- Tự chủ quốc gia và hội nhập quốc tế: Phát triển năng lực tự chủ về công nghệ, hạ tầng, dữ liệu và các mô hình trí tuệ nhân tạo chiến lược, đồng thời chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế viên cơ sở hài hòa với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
- Phát triển xanh, bao trùm và bền vững: Việc nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm sử dụng hiệu quả năng lượng và bảo vệ môi trường. đồng thời bảo đảm công bằng xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Quản lý dựa trên rủi ro: Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý tương xứng với cấp độ rủi ro của hệ thống trí tuệ nhân tạo, chỉ quy định quản lý bắt buộc đối với hệ thống có nguy cơ gây hại rõ ràng, khuyến khích cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, tiêu chuẩn mở và quy tắc ứng xử tự nguyện đối với các hoạt động còn lại.
- Thúc đẩy đổi mới sáng tạo: Nhà nước kiến tạo môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi, an toàn để thúc đẩy nghiên cứu, khởi nghiệp và thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến hệ thống trí tuệ nhân tạo.
Xem thêm chi tiết tại dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo.
![]() |
Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo |