Đã có dự thảo Nghị định đánh giá xếp loại công chức và cơ quan hành chính bằng KPI (Hình từ Internet)
Ngày 15/10/25025, Cổng TTĐT Bộ Tư pháp đã công bố hồ sơ thẩm định dự thảo Nghị định quy định về đánh giá xếp loại chất lượng đối với cơ quan hành chính nhà nước và công chức do Bộ Nội vụ soạn thảo.
![]() |
Dự thảo Nghị định |
Theo đó, dự thảo Nghị định đánh giá xếp loại công chức và cơ quan hành chính bằng KPI sẽ quy định về đánh giá xếp loại chất lượng, gồm: Nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá xếp loại chất lượng đối với cơ quan hành chính nhà nước và công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cấp xã. Và dự thảo Nghị định sẽ không áp dụng đánh giá xếp loại chất lượng đối với các tổ chức, cá nhân trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và tổ chức cơ yếu.
Với một số nội dung cụ thể như sau:
(1) Nguyên tắc chung đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức và công chức
- Bảo đảm dân chủ, công khai, công bằng, chính xác, trung thực, minh bạch, khách quan, xuyên suốt, liên tục, đa chiều trên tinh thần xây dựng, giữ vững đoàn kết; không nể nang, trù dập, thiên vị, hình thức.
- Bảo đảm đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục; cấp trực tiếp quản lý, sử dụng, phân công công việc thì thực hiện đánh giá xếp loại; bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Đánh giá xếp loại tổ chức được thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá xếp loại các tổ chức, đơn vị và công chức thuộc phạm vi quản lý.
- Đánh giá xếp loại chất lượng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá xếp loại chất lượng của tổ chức.
- Kết quả đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức và công chức là cơ sở để đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên.
- Kết hợp giữa tiêu chí định tỉnh với tiêu chỉ định lượng. Ưu tiên đo lường kết quả đầu ra và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.
- Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong theo dõi, đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức và công chức.
- Tỷ lệ xếp loại chất lượng:
+ Tỷ lệ công chức xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” không vượt quá 20% tổng số công chức được xếp loại “Hoàn thành tốt nhiệm vụ" trong phạm vi cùng một cơ quan, tổ chức, đơn vị và trong từng nhóm công chức có nhiệm vụ tương đồng;
+ Tỷ lệ tổ chức được xếp loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" không vượt quá 20% trong tổng số tổ chức được xếp loại “Hoàn thành tốt nhiệm vụ" trong cùng phạm vi quản lý và theo nhóm tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ tương đồng;
+ Trường hợp tổ chức có thành tích xuất sắc, nổi trội, tạo sự chuyển biến tích cực, hoàn thành vượt kế hoạch các công việc được giao, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực thì cấp có thẩm quyền quyết định tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đối với tổ chức và công chức thuộc phạm vi quản lý, không vượt quá 25% tổng số tổ chức, công chức được xếp loại "Hoàn thành tốt nhiệm vụ".
- Việc đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức, công chức phải được kiểm tra, giám sát; xem xét huỷ bỏ, đánh giá xếp loại lại chất lượng trong trường hợp phát hiện có khuyết điểm, không bảo đảm quy định về mức xếp loại hoặc thiếu trung thực làm cho kết quả không chính xác.
(2) Nguyên tắc đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức
Ngoài các nguyên tắc quy định tại Điều 4 dự thảo Nghị định, việc đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Việc đánh giá tổ chức căn cứ vào các tiêu chí chung và tiêu chí về kết quả thực hiện nhiệm vụ.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ được lượng hoá bằng sản phẩm, tiến độ, chất lượng công việc theo chương trình, kế hoạch công tác và nhiệm vụ được giao.
- Kết quả đánh giá xếp loại chất lượng đối với tổ chức căn cứ vào kết quả xếp loại chất lượng của các tổ chức thuộc, trực thuộc.
- Việc đánh giá xếp loại chất lượng đối với tổ chức cấp dưới được tiến hành trước khi đánh giá xếp loại chất lượng đối với tổ chức cấp trên.
(3) Nguyên tắc đánh giá xếp loại chất lượng đối với công chức
Ngoài các nguyên tắc quy định tại Điều 4 dự thảo Nghị định, việc theo dõi, đánh giá xếp loại chất lượng công chức còn thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Công chức có thời gian công tác trong năm chưa đủ 06 tháng thì thực hiện đánh giá nhưng không xếp loại chất lượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 12 dự thảo Nghị định.
- Công chức nghỉ việc riêng không hưởng lương nhưng bảo đảm thời gian làm việc từ 06 tháng trở lên; nghỉ ốm hoặc nghỉ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì kết quả xếp loại chất lượng trong năm là kết quả xếp loại chất lượng của thời gian làm việc thực tế của năm đó.
- Công chức bị xử lý kỷ luật đảng hoặc kỷ luật hành chính thì đánh giá xếp loại chất lượng như sau:
+ Công chức bị xử lý kỷ luật đảng hoặc kỷ luật hành chính trong năm đánh giá thì xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 12 dự thảo Nghị định;
+ Trường hợp hành vi vi phạm chưa có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền nhưng đã được dùng làm căn cứ để đánh giá xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ trong năm đánh giá thì quyết định xử lý kỷ luật ban hành sau năm đánh giá đối với hành vi vi phạm đó (nếu có) không được tính để đánh giá xếp loại chất lượng ở năm có quyết định xử lý kỷ luật;
+ Trường hợp công chức là đảng viên, đã bị xử lý kỷ luật đảng và kỷ luật hành chính về cùng một hành vi vi phạm nhưng quyết định kỷ luật đảng và quyết định kỷ luật hành chính không có hiệu lực trong cùng năm đánh giá thì chỉ tính là căn cứ xếp loại chất lượng ở một năm đánh giá;
+ Trường hợp công chức có khuyết điểm, vi phạm xảy ra ở tổ chức cũ nhưng bị xử lý kỷ luật và thi hành kỷ luật ở tổ chức mới chuyển đến thì tỉnh vào kết quả đánh giá xếp loại của tổ chức cũ (không xác định trách nhiệm của tổ chức mới);
+ Trường hợp công chức có khuyết điểm, vi phạm xảy ra ở cả tổ chức cũ và tổ chức mới, bị xử lý kỷ luật và thi hành kỷ luật ở tổ chức cũ và tổ chức mới chuyển đến thì tính hình thức kỷ luật vào kết quả đánh giá xếp loại theo thời điểm xác định hành vi vi phạm tại mỗi tổ chức.
Xem thêm tại dự thảo Nghị định đánh giá xếp loại công chức và cơ quan hành chính bằng KPI.