Bổ sung quy định mới về tài chính dựa trên tài sản trí tuệ trong năm 2026 (hình ảnh từ Internet)
Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
![]() |
Dự thảo Luật |
Cụ thể, tại khoản 5 Điều 1 dự thảo Luật đã đề xuất bổ sung Điều 8a vào sau Điều 8 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định mới về tài chính dựa trên tài sản trí tuệ, cụ thể:
- Các quyền sở hữu trí tuệ phải được ghi nhận vào sổ kế toán. Sau ghi nhận ban đầu, chủ sở hữu quyền có thể xác định lại giá trị hợp lý của quyền sở hữu trí tuệ tại thời điểm cuối kỳ lập báo cáo tài chính. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết khoản này.
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá các quyền sở hữu trí tuệ đã được giao dịch hợp pháp và các hướng dẫn chi tiết về phương pháp xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ.
- Chính phủ ban hành các chính sách thí điểm về tài chính đối với quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
+ Hỗ trợ hoặc bảo lãnh vay vốn trên cơ sở thế chấp quyền sở hữu trí tuệ;
+ Sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để huy động vốn trên thị trường chứng khoán;
+ Phát triển sản phẩm bảo hiểm và các sản phẩm tài chính khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
- Đối với doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam, các chi phí được tính là chi phí hợp lý và được hưởng mức giảm trừ cao nhất theo các quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm chi phí để tạo ra, xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí và giống cây trồng.
Doanh nghiệp được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp với mức ưu đãi cao nhất theo các quy định của pháp luật về thuế đối với phần thu nhập từ việc khai thác thương mại quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí và quyền đối với giống cây trồng theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Tổ chức trung gian được hưởng mức thuế ưu đãi cao nhất đối với thu nhập từ các dịch vụ hỗ trợ để khai thác thương mại thành công quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí và quyền đối với giống cây trồng theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp
- Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, bổ sung quy định nhằm tạo cơ sở để Chính phủ triển khai thí điểm một số chính sách về tài chính áp dụng thử nghiệm để đánh giá tính phù hợp và khả thi ở Việt Nam. Quy định này nhằm mục tiêu chính là biến tài sản trí tuệ thành tài sản có giá trị thương mại thực sự, có thể khai thác và sử dụng như các tài sản hữu hình khác. Từ đó, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo động lực cho các cá nhân và doanh nghiệp đầu tư vào việc tạo ra, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ.
Lý giải cho đề xuất bổ sung này là do:
* Trong nước:
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, việc khai thác thương mại các tài sản này còn gặp nhiều rào cản, chủ yếu do thiếu các cơ chế tài chính chuyên biệt và hành lang pháp lý đồng bộ.
Nhà nước cần hỗ trợ vay vốn hoặc huy động vốn trên cơ sở thế chấp bằng tài sản trí tuệ, phát hành chứng khoán dựa trên tài sản trí tuệ, phát triển các sản phẩm bảo hiểm và sản phẩm tài chính khác liên quan đến quyền SHTT (ví dụ, xếp hạng theo uy tín), góp vốn bằng tài sản trí tuệ...
- Xây dựng cơ chế và quy định riêng phù hợp về các tiêu chuẩn xác định giá trị tài sản trí tuệ, kế toán liên quan đến tài sản trí tuệ vì việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là một khâu khó khăn do giá trị của chúng thường biến động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm năng thị trường, khả năng bảo hộ, và khả năng sinh lời. Thiếu các tiêu chuẩn xác định giá trị khiến các giao dịch tài sản trí tuệ trở nên thiếu tin cậy.
Tương tự, việc ghi nhận tài sản trí tuệ trong sổ sách kế toán cũng chưa có quy định rõ ràng. Việc xây dựng một bộ tiêu chuẩn xác định giá trị và hạch toán kế toán riêng cho tài sản trí tuệ sẽ tạo cơ sở vững chắc, minh bạch và thống nhất để các bên liên quan (ngân hàng, nhà đầu tư, cơ quan thuế) có thể tin tưởng và sử dụng khi thực hiện các giao dịch liên quan đến SHTT.
* Về mặt kinh nghiệm quốc tế:
(1) Nhật Bản
Cam kết tín dụng: Chính phủ thành lập các quỹ bảo lãnh (VD: Tổ chức Bảo lãnh Tín dụng Nhật Bản (JCGC)) cùng các tổ chức bảo lãnh tín dụng để đảm bảo khoản vay dùng SHTT làm tài sản đảm bảo nhằm hỗ trợ SME vay vốn ngân hàng.
Có quỹ phòng ngừa rủi ro: nếu SME không trả được nợ tạm thời, quỹ này sẽ thanh toán thay trước, sau đó SME hoàn trả sau.
Báo cáo đánh giá IP của JPO: Từ 2015, JPO cung cấp IP Business Evaluation Report – báo cáo đánh giá tài sản SHTT miễn phí cho SME và ngân hàng, giúp ngân hàng ra quyết định cho vay dựa trên giá trị tài sản trí tuệ.
(2) Hoa Kỳ
Bảo lãnh Khoản vay Liên bang cho Công nghệ Sáng tạo trong Sản xuất (Federal Loan Guarantees for Innovative Technologies in Manufacturing): Thành lập chương trình cung cấp bảo lãnh khoản vay cho các nhà sản xuất vừa và nhỏ để sử dụng hoặc sản xuất các công nghệ sáng tạo, sản xuất sản phẩm công nghệ sáng tạo, hoặc thương mại hóa một sản phẩm, quy trình hoặc ý tưởng sáng tạo được phát triển từ nghiên cứu được tài trợ toàn bộ hoặc một phần bởi trợ cấp của chính phủ liên bang. Bảo lãnh khoản vay có thể lên tới 80% tổng giá trị khoản vay.
(3) Trung Quốc
Từ năm 2019, các cơ quan quản lý ban hành quy định thúc đẩy cho vay thế chấp SHTT, như: tách kế hoạch tín dụng riêng, nới trần nợ xấu cho vay SHTT, và miễn trách nhiệm cho ngân hàng nếu thực hiện đúng quy định nghiệp vụ.
Đối với bảo hiểm SHTT, từ năm 2011, CNIPA xúc tiến triển khai bảo hiểm sáng chế thông qua khảo sát nhu cầu, đào tạo, chuẩn hóa quy trình, và truyền thông nâng cao nhận thức. Chính phủ khuyến khích các công ty bảo hiểm phát triển sản phẩm phù hợp như: bảo hiểm trách nhiệm vi phạm SHTT ở nước ngoài, bảo hiểm thiệt hại do bị xâm phạm sáng chế, góp phần tăng khả năng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ doanh nghiệp.
Trung Quốc đã triển khai các cơ chế chia sẻ rủi ro đa bên (bảo lãnh, bảo hiểm, tái bảo hiểm), xây dựng xếp hạng rủi ro sáng chế, đồng thời phát triển các mô hình xử lý tài sản thế chấp như chuyển đổi thành cổ phần, cấp phép ngược, và đấu giá. Về tín dụng, từ năm 2014, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã thiết lập hệ thống dữ liệu tín dụng cho doanh nghiệp.
Trung Quốc sau một thời gian thử nghiêm cũng đã xây dựng Bộ chỉ số đánh giá sáng chế với ba trụ cột: giá trị pháp lý, kỹ thuật và kinh tế. Hệ thống này được áp dụng thí điểm tại nhiều viện, trường và doanh nghiệp.
(4) Singapore:
Khuyến khích các hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ bằng việc tăng tỉ lệ hoàn thuế đối với lợi nhuận tạo ra từ thương mại hóa tài sản trí tuệ, đồng thời chính sách này cũng sẽ giúp tăng sự trung thực, minh bạch trong kê khai thuế
Xem thêm dự thảo Luật dự kiến có hiệu lực trong năm 2026.