Theo đó, phòng, chống doping trong hoạt động thể thao, bao gồm các hoạt động sau đây:
- Giáo dục, truyền thông;
- Kiểm tra doping;
- Quản lý kết quả;
- Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong phòng, chống doping.
Những hành vi vi phạm Bộ luật Phòng, chống doping thế giới, cụ thể:
- Có chất bị cấm, chất chuyển hóa hoặc chất đánh dấu của chất bị cấm trong mẫu xét nghiệm của vận động viên.
- Sử dụng hay cố tình sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
- Lảng tránh, từ chối hoặc bỏ lỡ việc lấy mẫu thử mà không phải vì lý do bất khả kháng sau khi có thông báo.
- Vi phạm các yêu cầu liên quan đến sự có mặt của vận động viên để kiểm tra doping ngoài thi đấu.
- Làm sai lệch hoặc gây cản trở đối với bất kỳ công đoạn nào của việc kiểm tra doping.
- Sở hữu chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
- Buôn bán chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm.
- Cho vận động viên uống, sử dụng chất bị cấm hoặc phương pháp bị cấm trong thi đấu hoặc ngoài thi đấu; hỗ trợ, khuyến khích, giúp sức, sai khiến, bao che hoặc dính líu đến bất kỳ hành vi đồng lõa nào khác vi phạm quy định về phòng, chống doping.
- Đồng lõa, bao che cho một hoặc nhiều hành vi quy định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều này.
- Vận động viên có liên hệ về chuyên môn thể dục thể thao với huấn luyện viên, người hướng dẫn, bác sĩ hoặc bất kỳ ai đang trong thời gian bị kỷ luật do vi phạm quy định về phòng, chống doping.
- Kỳ thị, trù dập người tố cáo hành vi vi phạm doping.
Xem chi tiết tại Thông tư 01/2024/TT-BVHTTDL có hiệu lực thi hành từ ngày 09/7/2024.