
Quy định mới về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ (Hình từ Internet)
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Sau đó, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua bằng hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả 432/438 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 91,33 %), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Theo Báo cáo giải trình, tiếp thu dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, về ghi nhận, quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp, dự thảo có điều khoản chung về ghi nhận, quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp, rồi giao Chính phủ quy định chi tiết về hạch toán, thuyết minh, chuẩn mực định giá. Trong đó, có cả tài sản chưa đủ điều kiện để ghi nhận trên bảng cân đối kế toán sẽ được ghi trong sổ theo dõi riêng về tài sản trí tuệ, có thể tự định giá nhưng chỉ có giá trị nội bộ. Đây là biện pháp để thúc đẩy doanh nghiệp quản lý các tài sản trí tuệ của mình.
Với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, sau khi tiếp thu, giải trình, Luật đã chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung 71 điều và bãi bỏ 8 điều. Nội dung các điều của Luật đã thể chế hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng, đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu về sửa đổi, bổ sung Luật. Tư tưởng chính về sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ lần này là sở hữu trí tuệ phải biến kết quả nghiên cứu thành tài sản để có thể giao dịch. Sở hữu trí tuệ phải trở thành tài sản của doanh nghiệp, có thể định giá, mua bán, được đưa vào báo cáo tài chính, có thể là tài sản đảm bảo để đi vay, góp vốn, nhất là tài sản công nghệ mới, công nghệ số, AI.
Cụ thể, tại dự thảo bổ sung khoản 3a Điều 8 quy định chính sách của nhà nước về sở hữu trí tuệ như sau: hỗ trợ việc tạo ra, bảo hộ, khai thác, quản lý, phát triển đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ tổ chức, cá nhân Việt Nam xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng các mô hình chuyển nhượng, chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ; thúc đẩy cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền sở hữu trí tuệ giữa Nhà nước, nhà khoa học, tổ chức khoa học và công nghệ và doanh nghiệp.
Đồng thời, bổ sung Điều 8a quy định về quản lý, khai thác quyền sở hữu trí tuệ như sau:
- Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có trách nhiệm lập danh mục riêng để quản trị nội bộ trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng điều kiện để ghi nhận giá trị tài sản trong sổ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán.
- Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để thực hiện các hoạt động giao dịch dân sự, thương mại, đầu tư và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật liên quan theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ, quản lý, sử dụng tài sản công và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Nhà nước khuyến khích khai thác quyền sở hữu trí tuệ, sử dụngquyền sở hữu trí tuệ để góp vốn hoặc thế chấp để vay vốn theo quy định của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, tín dụng và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Chính phủ quy định chi tiết Điều 8a