Công văn 5385: Bộ Tư pháp trả lời kiến nghị liên quan đến công tác bồi thường nhà nước (Hình từ văn bản)
Bộ Tư pháp ban hành Công văn 5385/BTP-CĐK&BTNN ngày 30/8/2025 về việc trả lời kiến nghị liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.
![]() |
Công văn 5385/BTP-CĐK&BTNN |
Thực hiện nhiệm vụ rà soát khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi có kiến nghị liên quan đến lĩnh vực bồi thường của Nhà nước như sau:
Tại điểm a khoản 4 Điều 26 Nghị định 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Nghị định 68/2018/NĐ-CP) quy định về việc xác định mức hoàn trả trong trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại được thực hiện như sau: “a) Xác định mức hoàn trả của một người thi hành công vụ trên toàn bộ số tiền Nhà nước đã bồi thường tương ứng với mức độ lỗi theo quy định tại Khoản 2 Điều 65 của Luật”.
Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa quy định cơ sở để xác định mức độ lỗi, mức độ hoàn trả của người thi hành công vụ. Trong thực tế hoạt động quản lý hành chính Nhà nước về quyền sử dụng đất và bất động sản, thường xảy ra các trường hợp sai phạm, có lỗi của nhiều cán bộ, công chức thuộc các cơ quan khác nhau từ phường, xã đến thành phố, tỉnh. Việc xác định cơ quan nào chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trách nhiệm hoàn trả của từng cá nhân trong trường hợp này là rất khó khăn, phức tạp. Vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, ban hành mới VBQPPL (theo trình tự, thủ tục rút gọn ban hành VBQPPL của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước).
Về kiến nghị này, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Điều 65 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định cụ thể về căn cứ xác định mức hoàn trả, việc xác định mức hoàn trả trong trường hợp có nhiều người thi hành công vụ gây thiệt hại. Đồng thời, khoản 4 Điều 26 Nghị định 68/2018/NĐ-CP cũng đã quy định về việc xác định mức hoàn trả trong trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại. Bên cạnh đó, khoản 6 Điều 28 Nghị định 68/2018/NĐ-CP đã quy định Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có nhiệm vụ xác định người thi hành công vụ gây thiệt hại, đánh giá, xác định mức độ lỗi của người thi hành công vụ gây thiệt hại trên cơ sở nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường và hồ sơ liên quan đến việc thi hành công vụ gây thiệt hại.
Như vậy, đối chiếu với các quy định hiện hành của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Nghị định 68/2018/NĐ-CP thì đã có cơ sở để Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả xác định mức độ lỗi và mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại trong trường hợp có nhiều người thi hành công vụ gây thiệt hại như kiến nghị của Quý Sở.
Xem thêm tại Công văn 5385/BTP-CĐK&BTNN ban hành ngày 30/8/2025 về việc trả lời kiến nghị liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.
Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 như sau:
- Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:
+ Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017;
+ Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017;
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.
- Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
+ Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 và có yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;
+ Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại;
+ Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và có yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.