
Hướng dẫn xác định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (Nghị quyết 04) (Hình từ Internet)
Ngày 30/9/2025, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Theo Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự như sau:
(1) “Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- “Ngăn chặn tác hại của tội phạm” là khi tội phạm đã được thực hiện và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để ngăn chặn không cho tác hại của tội phạm xảy ra;
- “Làm giảm bớt tác hại của tội phạm” là khi tội phạm đã được thực hiện, tác hại của tội phạm đang xảy ra và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để không cho tác hại của tội phạm tiếp tục xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào thái độ của người phạm tội (tự mình hay có sự tác động của người khác, yếu tố khách quan khác) và thực tế tác hại của tội phạm đã được ngăn chặn, được làm giảm bớt.
Ví dụ: Ngay sau khi gây ra tai nạn giao thông, Nguyễn Văn A đã đưa nạn nhân đi cấp cứu kịp thời nên tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân được giảm bớt. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(2) “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả"” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội tự mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
- Người phạm tội không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (như: việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoặc thuộc trách nhiệm dân sự của các bị cáo khác trong cùng vụ án) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
- Người phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, nhưng bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, mà số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
- Có chứng cứ chứng minh người phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè...) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, nhưng bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó cất giữ, gửi giữ để sẵn sàng thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả khi có yêu cầu.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào sự chủ động, tích cực của người phạm tội trong việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và hiệu quả, mức độ của việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
(3) “Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức mà thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi chống trả không tương xứng, có sự chênh lệch lớn so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Để xác định hành vi chống trả có "rõ ràng quá mức cần thiết" hay không phải xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những tình tiết, sự kiện liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi chống trả như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại mà hành vi xâm hại có thể gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp thực hiện; nhân thân người xâm hại; tương quan lực lượng, cường độ, mức độ của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ; bối cảnh, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra sự việc...
Ví dụ: Phạm Văn T dùng dao uy hiếp và đấm vào mặt Nguyễn Văn A. Để bảo vệ mình, A đã giằng co với T, cướp dao và ném xuống sông. Khi T bỏ chạy, A vẫn đuổi theo và lấy đá đập nhiều lần vào người T dẫn đến tổn thương cơ thể tỷ lệ 25%. Hành vi gây thương tích của A đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(4) “Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa nhưng thực tế thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (thiệt hại thực tế bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa).
Ví dụ: Khi xảy ra cháy ở cửa hàng, mặc dù đám cháy đã được khống chế nhưng vẫn để lại lượng khói lớn, Nguyễn Văn A là nhân viên cho rằng đám cháy sẽ lây lan sang nhà để xe nên đã phá cửa và tưởng nhằm mục đích lấy xe máy của mình trị giá 20.000.000 đồng. Hành vi của A đã gây ra thiệt hại thực tế là 100.000.000 đồng, thiệt hại này lớn hơn thiệt hại phải ngăn ngừa nên hành vi của A đã vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(5) “Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ nhưng thực tế đã sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bắt được Nguyễn Văn B do có hành vi cướp giật túi xách của người đi đường. Tuy đã khống chế được B nhưng A vẫn đánh, đạp liên tiếp vào người B mặc dù đã được người khác can ngăn. Hậu quả B bị gãy chân, tay, tổn thương cơ thể tỷ lệ là 65%. Hành vi của A đã vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(6) “Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội bị kích động về tinh thần, bị chi phối do hành vi trái pháp luật của nạn nhân khiến họ không hoàn toàn tự chủ, tỉnh táo, tự kiềm chế mà thực hiện hành vi phạm tội. Sự kích động tinh thần phải là tức thời do hành vi trái pháp luật của nạn nhân dẫn tới thực hiện hành vi phạm tội;
- Trường hợp hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỉ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người phạm tội bị kích động không tự kiềm chế được mà thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp này nếu tách riêng hành vi nêu trên thì không coi là kích động, nhưng nếu xét cả quá trình diễn biến của sự việc thì được coi là kích động mạnh hoặc rất mạnh nên người phạm tội có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn phải căn cứ vào lỗi, mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của nạn nhân với tình trạng tỉnh thần bị kích động của người phạm tội.
Chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ này nếu nạn nhân là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật và hành vi trái pháp luật đó xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thân thích của người phạm tội. Nếu hành vi trái pháp luật của nạn nhân không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của họ khiến người phạm tội bị kích động về tinh thần thì không phải là căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ví dụ: Nguyễn Văn A thường xuyên uống rượu, đánh chửi vợ con và đập phá đồ đạc. Ngày 01/9/2025, A tiếp tục đập phá đồ đạc, đánh chửi vợ và con là Nguyễn Văn B; không kiềm chế được, B đã lấy đoạn gỗ đập nhiều nhát vào đầu A. Hậu quả A bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 65%. Trường hợp này, Nguyễn Văn B được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(7) “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp phải do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội và hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự mình gây ra, có thể do người khác hoặc nguyên nhân khách quan khác gây ra (như: thiên tai địch họa, hỏa hoạn, tai nạn rủi ro, bệnh hiểm nghèo, sự kiện bất khả kháng dẫn tới bước đường cùng hoặc không còn tài sản đáng kể...). Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ hai điều kiện “phải do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội” và “hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự mình gây ra".
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn phải căn cứ vào mức độ, hoàn cảnh khó khăn và khả năng khắc phục của người phạm tội.
Ví dụ: Gia đình Nguyễn Văn A thuộc hộ nghèo, vợ bị liệt nửa người, chồng không có thu nhập ổn định. Do con nhỏ gặp tai nạn nguy hiểm đến tính mạng phải đưa đi cấp cứu và điều trị, nhưng gia đình không có tiền và không vay mượn được ai nên A đã lấy trộm chiếc xe máy bán được số tiền 20.000.000 đồng và dùng số tiền đó để chữa bệnh cho con. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(8) “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại là trường hợp tội phạm đã được thực hiện nhưng thiệt hại (vật chất hoặc phi vật chất) không xảy ra trên thực tế. Khi xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cần phân biệt với trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự.
Ví dụ 1: Nguyễn Văn A phá cửa nhà người khác để lấy trộm chiếc xe máy trị giá 20.000.000 đồng. A đã đưa được xe máy ra khỏi cổng nhà thì bị chủ nhà phát hiện, hô hoán nên hàng xóm ngăn chặn, bắt giữ được A cùng xe máy. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ví dụ 2: Nguyễn Văn A phá cửa nhà người khác để lấy trộm chiếc xe máy trị giá 20.000.000 đồng nhưng khi đang cố gắng tìm cách mở khóa xe thì bị chủ nhà phát hiện, bắt giữ. Trường hợp này, Nguyễn Văn A phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn là trường hợp tội phạm đã được thực hiện và đã gây ra thiệt hại (thiệt hại thực tế đã xảy ra) nhưng thiệt hại xảy ra không lớn so với mức bình thường của tội phạm đó. Việc xác định thiệt hại lớn hay không lớn phải căn cứ vào giá trị thiệt hại (thiệt hại vật chất), ảnh hưởng của thiệt hại đến chủ sở hữu và xã hội (thiệt hại phi vật chất). Đối với thiệt hại vật chất thì căn cứ vào trị giá quy đổi thành tiền, đối chiếu với định lượng bằng tiền quy định trong các cấu thành tội phạm tương ứng mà tội phạm xâm phạm. Đối với thiệt hại phi vật chất thì đánh giá mức độ ảnh hưởng của tội phạm tới tâm lý, tỉnh thần, uy tín, danh dự sức khỏe của bị hại, mức độ ảnh hưởng tới dư luận, đời sống xã hội, cộng đồng để xem xét xác định.
(9) “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp phạm tội khi có đủ 02 điều kiện sau đây:
- Phạm tội lần đầu là trường hợp từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào hoặc trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; thuộc trường hợp được coi là không có án tích; trước đó đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích;
- Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm hoặc trường hợp người phạm tội có vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án đồng phạm về tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Tòa án chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi có đủ 02 điều kiện “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc ngược lại phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng không phải là phạm tội lần đầu thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Nếu bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị kết án hoặc chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong lần phạm tội sau thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
Ví dụ: Nguyễn Văn A chưa phạm tội lần nào, nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự (thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng). Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(10) “Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức” quy định tại điểm k khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- “Bị người khác đe doạ” là bị người khác dọa trừng phạt nếu làm trái ý họ, tạo cho người phạm tội nỗi lo sợ về một hậu quả có thể xảy ra và để tránh hậu quả đó người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm;
- “Bị người khác cưỡng bức" là bị người khác dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, có sự tác động về thể chất hoặc tinh thần hoặc có hành vi khác buộc người phạm tội phải thực hiện tội phạm.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hành vi đe dọa, cưỡng bức đối với người phạm tội.
Ví dụ: Lê Tấn Y là chủ nợ, thường xuyên có hành vi hành hung, đe dọa nếu vợ chồng Nguyễn Văn A không trả nợ thay cho bà Đinh Thị K (mẹ đẻ của A) thì sẽ giết vợ chồng A. Ngày 01/8/2025, A cùng một số người đến gặp Y để thương lượng nhưng dẫn đến xô xát, hậu quả Y bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 30%. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm k khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(11) “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức, không đủ tỉnh táo để nhận biết một cách đầy đủ mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động (như: bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh...), chứ không phải do bản thân người phạm tội gây ra.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào tính chất, mức độ bị hạn chế khả năng nhận thức của người phạm tội và hoàn cảnh, nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động đến nhận thức của người phạm tội.
Ví dụ: Nguyễn Văn A biết Phạm Văn B nếu uống rượu thì sẽ gặp tình trạng hạn chế khả năng điều khiển hành vi. A đổ rượu vào lon nước ngọt cho B uống. Biết mình đã uống rượu, B tức giận, bỏ về. Trên đường về, thấy chị Tạ Thị C nên B đã xông vào đánh chị C, hậu quả chị C bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 30%. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y tâm thần, kết quả giám định kết luận: tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, về mặt y học, B bị trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do rượu (say rượu bệnh lý). Trường hợp này, Phạm Văn B được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(12) “Phạm tội do lạc hậu"” quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp phạm tội do nhận thức, trình độ thấp kém mà không nhận thức đầy đủ tính chất nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra hoặc không theo kịp đã tiến bộ, đã phát triển chung của xã hội. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội do lạc hậu” nếu sự lạc hậu đó là do nguyên nhân khách quan đưa lại (như: do đời sống xã hội nên không hiểu biết hoặc kém hiểu biết về pháp luật, không được học tập, không có điều kiện thực tế để nhận biết cái đúng, cái sai trong cuộc sống...).
Ví dụ: Sùng Văn A là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn vẫn còn phong tục bắt vợ từ sớm. A đã bắt chị Vàng Thị B 14 tuổi về làm vợ nhưng không có sự đồng thuận của chị B dẫn đến chị B có con khi mới 15 tuổi. Trường hợp này, Sùng Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(13) “Người phạm tội là phụ nữ có thai”, “Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” quy định tại điểm n và điểm ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc là người từ đủ 70 tuổi trở lên tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội hoặc trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xác định người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc là người từ đủ 70 tuổi trở lên phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn hoặc giấy tờ, tài liệu hợp pháp khác.
(14) “Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng” quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội bị khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng tại thời điểm thực hiện
hành vi phạm tội hoặc trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến suy giảm hoặc mất một phần chức năng, không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cả nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, chăm sóc; cũng được coi là người khuyết tật nặng nếu có khả năng tự phục vụ sinh hoạt khi có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;
- Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không thể tự kiểm soát hoặc không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà luôn phải có người theo dõi, chăm sóc; cũng được coi là người khuyết tật đặc biệt nặng nếu không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
Người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng được xác định theo quy định của Luật Người khuyết tật và quy định khác của pháp luật. Tòa án căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế, kết luận giám định hoặc chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền để xác định người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặt biệt nặng.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng của người phạm tội.
Ví dụ: Ngày 20/3/2025, Nguyễn Văn A thực hiện hành vi cướp tài sản, chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại trị giá 20.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn S. Ngày 24/5/2025, A bị tai nạn giao thông và phải cắt bỏ chân phải và được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận khuyết tật mức độ nặng do bị suy giảm khả năng lao động 65%. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(15) “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội là người có bệnh mà bệnh đó là nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội;
- Người phạm tội đã mắc bệnh mà bệnh đó làm cho họ không điều khiển được hành vi theo ý muốn của mình (hạn chế về khả năng vận động của cơ thể) mặc dù họ vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó.
Chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ này nếu là người phạm tội có bệnh, được cơ quan chuyên môn kết luận và bệnh đó là nguyên nhân dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.
Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi cố ý gây thương tích đối với chị Nguyễn Thị B. Kết luận giám định pháp y tâm thần xác định A trong khi phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi do bệnh rối loạn tâm thần, bệnh chậm phát triển tâm thần mức độ vừa. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(16) “Người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Trường hợp người phạm tội bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.
Ví dụ: Ngay sau khi có hành vi gây tai nạn giao thông, hậu quả làm chết người, Nguyễn Văn A đã đến cơ quan công an cấp xã để trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(17) “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội thành khẩn khai báo là trường hợp đã khai nhận đầy đủ, đúng sự thật, chính xác, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình;
- Người phạm tội ăn năn hối cải là trường hợp cảm thấy day dứt, hối hận về việc mình đã gây ra và mong muốn có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, cải tạo thành người tốt, bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.
“Thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải” không phải là hai tình tiết độc lập. Nếu người phạm tội vừa “thành khẩn khai báo”, vừa “ăn năn hối cải" thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người phạm tội bị bắt quả tang, nhưng sau khi bị bắt đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo cho họ. Nếu sau khi bị bắt người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự thật của vụ án và chỉ sau khi cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh được đầy đủ hành vi phạm tội của họ, họ mới nhận sự việc phạm tội của họ đúng như cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh, thì không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.
Trường hợp lúc đầu người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự thật, nhưng sau đó đã khai báo lại một cách đầy đủ và đúng sự thật diễn biến việc phạm tội, thì vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo đối với họ, nhưng mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này không thể bằng trường hợp ngay từ đầu họ đã khai báo đầy đủ và đúng sự thật.
(18) “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm người phạm tội chủ động, tích cực giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tạo ra những biến đổi, thay đổi trong việc phát hiện, chứng minh tội phạm, giải quyết vụ án dẫn tới việc giải quyết vụ án đó được thực hiện nhanh hơn.
Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án được thể hiện bằng việc cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật có ý nghĩa thiết thực cho việc phát hiện, chứng minh tội phạm, giải quyết vụ án; chỉ nơi cất giấu vật chứng, công cụ, phương tiện phạm tội; cung cấp thông tin, nơi trốn tránh của đồng phạm khác.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào tính chủ động, mức độ tích cực hợp tác; giá trị của những thông tin, tài liệu, chứng cứ mà người phạm tội đã cung cấp; hiệu quả của những hành vi hợp tác của người phạm tội.
Ví dụ: Nguyễn Văn A đã cung cấp thông tin cho Cơ quan điều tra về hành vi phạm tội và nơi lẩn trốn của Phạm Văn B nên Cơ quan điều tra bắt được B là đồng phạm trong vụ án. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(19) “Người phạm tội đã lập công chuộc tội” quy định tại điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là trường hợp từ khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), người phạm tội có một trong các hành động được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng, xác nhận sau đây:
- Giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, ngăn chặn, truy bắt tội phạm khác không liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội;
- Có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền, lợi ích chính đáng của người khác hoặc lập được những chiến công, công lao khác để sửa chữa, bù đắp cho hành vi phạm tội của mình như giúp được người khác trong tình thể hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị của Nhà nước, tập thể, cá nhân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác.
Ví dụ: Trong giai đoạn điều tra, Nguyễn Văn A đã có hành động giúp lực lượng chức năng khống chế đám cháy, cứu được 04 người mắc kẹt trong đám cháy. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã tặng giấy khen cho A. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(20) “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người được tặng thưởng huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc được công nhận là chiến sỹ thi đua theo quy định của pháp luật thi đua khen thưởng;
- Người được tặng Kỷ niệm chương do có sự đóng góp vào quá trình phát triển của Bộ, ban, ngành, tỉnh, tổ chức theo quy định của pháp luật thi đua khen thưởng;
- Hình thức khen thưởng khác đổi với người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác theo quy định của pháp luật thi đua khen thưởng.
Ví dụ: Người phạm tội được tặng thưởng huân chương lao động, danh hiệu Anh hùng lao động, nghệ sĩ nhân dân hoặc danh hiệu chiến sĩ thi đua... Trường hợp này, người phạm tội được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
(21) “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ” quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội là người có công với cách mạng quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh 02/2020/UBTVQH14 về ưu đãi người có công với cách mạng;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Trường hợp người phạm tội là vợ, chồng của liệt sĩ, đã kết hôn với người khác nhưng vẫn thờ cúng liệt sĩ thì cũng được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
Trường hợp người phạm tội là người có công nuôi dưỡng liệt sĩ hoặc có công nuôi dưỡng cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (kể cả trường hợp những người này đã chết) thì cũng được áp dụng tình tiết người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người phạm tội đồng thời vừa là người có công với cách mạng vừa là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ thì được coi là có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 30/9/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2025.