
Bộ Chính trị yêu cầu hoàn tất chuẩn bị sàn giao dịch vàng, tài sản số (Hình từ internet)
Ngày 4/11/2025, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận 203-KL/TW về tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện ở mức cao nhất mục tiêu tăng trưởng năm 2025, tạo đà vững chắc cho tăng trưởng bền vững ở mức 2 con số trong giai đoạn tới và tổng kết Nghị quyết 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII.
Cụ thể, theo nội dung tại Kết luận 203-KL/TW năm 2025, thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị nhằm tạo đột phá phát triển trong các lĩnh vực, nhất là yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Tuy nhiên, yêu cầu tăng trưởng cho năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030 là rất cao, đặt ra nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị rất bài bản, căn cơ, nhưng cũng rất cấp bách, không thể chậm trễ, không được bỏ lỡ thời cơ nhằm hoàn thành các mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và thực hiện thắng lợi hai mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và năm 2045.
Từ tình hình trên, Bộ Chính trị yêu cầu trước mắt tập trung ngay vào chỉ đạo hoàn tất các bước chuẩn bị cho:
(i) Các thị trường, định chế tài chính, tiền tệ vận hành (Trung tâm tài chính quốc tế; Sàn giao dịch tài sản số; Sàn giao dịch vàng,...),
(ii) Khởi công một số dự án quan trọng quốc gia trong các lĩnh vực giao thông, năng lượng, hạ tầng và các dự án sử dụng vốn đầu tư công lớn (Dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông; Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; Dự án đường sắt quốc tế,...) từ đầu năm 2026; đồng thời:
- Giao Ban Chính sách, chiến lược Trung ương tiếp tục hướng dẫn tổng kết từ cơ sở Nghị quyết 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII phù hợp với từng địa phương, cơ quan, đơn vị; dự thảo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV về các giải pháp chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế "2 con số"; xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết với các đề án, dự án cụ thể trên tất cả các lĩnh vực, trình Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV (trường hợp hoàn thiện trước tiến độ, có thể trình Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV).
- Giao các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từ nay đến khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết mới về tăng trưởng, cần tiếp tục quán triệt, khẩn trương thể chế hoá, tổ chức triển khai thực hiện đầy đủ, thực chất, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, trọng tâm là Kết luận 199-KL/TW, ngày 10/10/2025 của Hội nghị Trung ương 13 khoá XIII về kinh tế - xã hội năm 2025 - 2026, các Nghị quyết của Bộ Chính trị (số 57, 59, 66, 68, 70, 71, 72 và một số nghị quyết ban hành thời gian tới), kết luận, ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị khoá XIII về định hướng chỉ đạo rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho phát triển kinh tế gắn với đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chủ động rà soát, cập nhật, điều chỉnh các kế hoạch, chương trình hành động, các đề án để thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng bảo đảm sát thực, rõ người, rõ việc, rõ nguồn lực, rõ tiến độ, rõ trách nhiệm.
- Giao Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nghiên cứu, chắt lọc nội dung Đề án để bổ sung, hoàn thiện dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, nhất là những nội dung về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thống nhất, đồng bộ.
(1) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch về phát triển thị trường vàng theo hướng thị trường hóa.
(2) Xây dựng, điều chỉnh tổng hạn mức hàng năm đối với việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu của các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại quy định tại Điều 11a Nghị định 24/2012/NĐ-CP trên cơ sở:
- Tình hình kinh tế vĩ mô và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ;
- Quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước;
- Tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu;
Trên cơ sở tổng hạn mức hàng năm, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cấp hạn mức hàng năm cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại theo quy mô vốn điều lệ của doanh nghiệp, ngân hàng thương mại; tình hình xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu của các năm trước (nếu có) và nhu cầu của doanh nghiệp, ngân hàng thương mại. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định cách thức phân bố hạn mức hàng năm cho các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại.
(3) Ngân hàng Nhà nước cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi:
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ;
- Giấy phép sản xuất vàng miếng;
- Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
- Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu;
- Giấy phép mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định;
- Giấy phép đối với các hoạt động kinh doanh vàng quy định tại khoản 9 Điều 4 sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép;
- Hạn mức xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; nhập khẩu vàng nguyên liệu của doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, quy định tại Điều 11a Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
(4) Phối hợp cùng các bộ, ngành liên quan để thiết lập hệ thống thông tin, xây dựng, lưu trữ dữ liệu về thị trường vàng, kết nối cung cấp thông tin cho cơ quan liên quan nhằm tăng tính minh bạch, hỗ trợ hiệu quả công tác quản lý.
(5) Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động sản xuất vàng miếng, vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu và hoạt động kinh doanh vàng quy định tại khoản 9 Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
(6) Ngân hàng Nhà nước đăng tải trên trang thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước giá mua, giá bán vàng miếng do doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng cung cấp.
(7) Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác liên quan đến quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
(Điều 16 Nghị định 24/2012/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 232/2025/NĐ-CP)