Theo Thông báo Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất các nội dung đề xuất của Đảng ủy Chính phủ về một số nội dung sửa đổi, bổ sung các nghị quyết, kết luận của Trung ương.
Trong đó, về Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất đánh giá qua 03 năm thực hiện, Nghị quyết 18-NQ/TW năm 2022 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các quan điểm, nội dung đổi mới của Nghị quyết đã được thể chế hóa và triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời, bước đầu được thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp, góp phần giải phóng nguồn lực đất đai đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất cần tiếp tục kiên định, nhất quán trong nhận thức và triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chưa phát huy hết tiềm năng nguồn lực đất đai phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mặt khác, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn tạo cơ sở chính trị, pháp lý để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi một số quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 18-NQ/TW cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận, thống nhất bổ sung quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 18-NQ/TW cho phù hợp với bối cảnh mới;
Sửa đổi mục tiêu của Nghị quyết 18-NQ/TW để phù hợp với tình hình và khả năng thực hiện trên thực tế; điều chỉnh, bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 18-NQ/TW.
Sửa đổi Nghị quyết 18-NQ/TW về đất đai (Hình từ internet)
(1) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra.
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình. Quản lý và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững.
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, đồng thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương và tăng cường kiểm ưa, giám sát, kiểm soát, xử lý vi phạm.
(2) Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; không điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân; kịp thời có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được khai thác, sử dụng với hiệu quả cao nhất.
(3) Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai; kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí.
(4) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Hiện đại hoá công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò và năng lực các cơ quan tư pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.
Đất đai phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hóa, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; được quy hoạch sử dụng hiệu quả, hợp lý với tầm nhìn dài hạn, hài hòa lợi ích giữa các thế hệ, các vùng, miền, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển giáo dục, văn hóa, thể thao; bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn.
(5) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
(Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 16/6/2022)