Đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với sản phẩm Halal theo Công điện Thủ tướng (Hình từ Internet)
Theo Công điện 133/CĐ-TTg năm 2025, Để bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt 8,3-8,5%, tạo nền tảng cho tăng trưởng giai đoạn 2026 - 2030 đạt hai con số, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải đẩy mạnh sản xuất công nghiệp gắn với cơ cấu lại thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất. Trong đó, yêu cầu Bộ Công thương:
Chủ trì, phối hợp với các bộ ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng lựa chọn, phát triển nhóm sản phẩm chủ lực gắn với Thương hiệu quốc gia, triển khai các chương trình xúc tiến thương mại quy mô lớn, chuyên sâu theo từng ngành hàng tại các thị trường trọng điểm; tăng cường xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh tại các thị trường có FTA/CEPA với Việt Nam, thị trường ngách và thị trường mới như: thị trường sản phẩm Halal, Saudi Arabia, Ai Cập, UAE, Brazil, thị trường Bắc Phi... Năm 2025, phấn đấu tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 12%; xuất siêu 30 tỷ USD.
Xem thêm tại Công điện 133/CĐ-TTg
Mới đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố dự thảo Nghị định (dự thảo 2) quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal. Theo đó để xuất quy định một số khái niệm như sau:
(1) Halal theo tiếng Ả Rập có nghĩa là hợp pháp, được phép dựa trên việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và phù hợp với các chuẩn mực, giá trị của đạo Hồi (Islam) theo Kinh Quaran, Luật Hồi giáo.
(2) Sản phẩm Halal là sản phẩm đã được tuyên bố là hợp pháp hoặc được phép theo luật Hồi giáo.
(3) Chứng nhận Halal là hoạt động đánh giá và cấp chứng nhận để xác nhận rằng một sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình sản xuất tuân thủ các quy định của luật Hồi giáo. Điều này bao gồm việc xác minh rằng sản phẩm hoặc dịch vụ đó là sản phẩm Halal hoặc được sản xuất từ các vật liệu Halal và thông qua một quy trình Halal.
Về nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal theo dự thảo như sau:
(1) Tuân thủ đầy đủ và toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác có liên quan, đồng thời tuân thủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
(2) Đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và không phân biệt đối xử trong mọi hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động đánh giá sự phù hợp Halal. Tính thống nhất được thể hiện qua việc áp dụng đồng bộ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình và yêu cầu Halal trên phạm vi toàn quốc. Tính minh bạch được đảm bảo thông qua việc công khai, dễ tiếp cận các thông tin về chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, quy trình chứng nhận, danh sách các tổ chức chứng nhận Halal được công nhận hoặc thừa nhận, và các thông tin liên quan khác.
(3) Hài hòa các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình quản lý Halal của Việt Nam với các tiêu chuẩn, hướng dẫn và thông lệ quốc tế được thừa nhận rộng rãi về Halal, đặc biệt là các tiêu chuẩn do Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) và các cơ quan trực thuộc như Viện Tiêu chuẩn và Đo lường cho các quốc gia Hồi giáo (SMIIC) ban hành, các hướng dẫn của Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm Quốc tế (Codex Alimentarius) có liên quan đến thực phẩm Halal, cũng như các yêu cầu kỹ thuật và quy định của các thị trường xuất khẩu trọng điểm, nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế.
(4) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng Hồi giáo, đối với các sản phẩm, dịch vụ Halal; đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm, dịch vụ Halal chân chính, tuân thủ pháp luật. Ngăn chặn và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng mang nhãn hiệu Halal, gian lận thương mại, quảng cáo sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn về tính Halal của sản phẩm, dịch vụ.
(5) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm, dịch vụ Halal; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Halal Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
(6) Quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal được thực hiện trên cơ sở đánh giá rủi ro, trong đó ưu tiên tập trung nguồn lực kiểm soát vào các công đoạn, quy trình, thành phần hoặc yếu tố có nguy cơ cao gây ảnh hưởng đến tính Halal, an toàn và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ.
(7) Đảm bảo tính nguyên vẹn, tính xác thực và khả năng truy xuất nguồn gốc của sản phẩm Halal trong toàn bộ chuỗi cung ứng, từ khâu lựa chọn, khai thác, nuôi trồng, thu mua nguyên liệu đầu vào, qua các công đoạn sản xuất, chế biến, đóng gói, cho đến khâu vận chuyển, lưu trữ, bảo quản, phân phối và cung cấp sản phẩm, dịch vụ đến tay người tiêu dùng cuối cũng.
Xem thêm tại dự thảo Nghị định (dự thảo 2) quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal.