Đề xuất điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế TNCN của hộ, cá nhân kinh doanh (Hình từ internet)
Mới đây, Bộ Tài chính đã công bố Đề cương Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân thay thế Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành. Trong đó, đề xuất điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập của hộ, cá nhân kinh doanh.
Cụ thể, Bộ Tài chính đã nêu ra những mục tiêu cụ thể trong việc hoàn thiện quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh nhằm phù hợp với hoạt động kinh doanh của cá nhân, khuyến khích cá nhân kinh doanh làm giàu chính đáng và đảm bảo mục tiêu điều tiết của thuế TNCN. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước và đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển.
Theo đó, tại Tờ trình Bộ Tài chính đã đề ra 03 giải pháp để hoàn thiện quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh như sau:
- Giải pháp 1: Điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập từ kinh doanh.
Theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007, đối với thu nhập từ kinh doanh cũng được áp dụng các khoản giảm trừ khi tính thuế TNCN.
Tuy nhiên, đối với hộ, cá nhân kinh doanh, quy trình tính thuế này là phức tạp do đại bộ phận hộ, cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, không xác định được chi phí, thu nhập chịu thuế nên cơ quan thuế phải thực hiện ấn định thu nhập, sau đó lại xác định thu nhập tính thuế dựa trên cơ sở giảm trừ gia cảnh để áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần như cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật thuế 2014 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2015) quy định: Đối với hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì không phải nộp thuế TNCN; Đối với hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm nộp thuế TNCN theo tỷ lệ ấn định trên doanh thu theo từng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Quá trình thực hiện có ý kiến cho rằng mức 100 triệu đồng/năm để xác định cá nhân không thuộc diện nộp thuế TNCN là không phù hợp, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo tỷ lệ trên doanh thu không được giảm trừ gia cảnh. Trong khi đó, từ kỳ tính thuế năm 2020, mức giảm trừ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm) đối với bản thân người nộp thuế, 4,4 triệu đồng/tháng đối với mỗi người phụ thuộc.
Để phù hợp với sự biến động của giá cả, thống nhất với ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh đang được đề xuất sửa đổi (tại dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) đang trình Quốc hội cũng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập từ kinh doanh và giao Chính phủ quy định mức cụ thể). Theo đó, quy định này cũng cần được cập nhật để bổ sung tại Luật thuế TNCN đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật trên cơ sở kế thừa đầy đủ quy định tại dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua.
- Giải pháp 2: Sửa đổi, bổ sung quy định về doanh thu để thống nhất với các pháp luật liên quan.
Đối với hoạt động kinh doanh của cá nhân, việc xác định doanh thu cần rà soát để đảm bảo thống nhất, tương đồng với các pháp luật liên quan, nhất là pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Giải pháp 3: Quy định cụ thể mức thuế suất đối với một số khoản thu nhập từ hoạt động cung cấp sản phẩm và dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật thuế 2014 quy định: Đối với hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm nộp thuế TNCN theo tỷ lệ ấn định trên doanh thu theo từng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh (Phân phối, cung cấp hàng hóa: 0,5%; Dịch vụ; xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 2% (Riêng hoạt động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp: 5%); Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 1,5%; Hoạt động kinh doanh khác: 1%).
Quy định này đảm bảo chính sách đơn giản, rõ ràng, minh bạch, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, tính tuân thủ pháp luật thuế của các hộ, cá nhân kinh doanh, tiết kiệm chi phí tuân thủ thuế cho người nộp thuế và cơ quan thuế.
Mặc dù quy định thu thuế TNCN theo tỷ lệ trên doanh thu, không tính trừ chi phí và các khoản giảm trừ, tuy nhiên mức tỷ lệ được xây dựng đã tính toán phù hợp hoạt động kinh doanh của cá nhân tương ứng với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh và thấp hơn tỷ lệ trên doanh thu hiện đang áp dụng đối với doanh nghiệp không xác định được chi phí, thu nhập của hoạt động kinh doanh.
Quá trình thực hiện có ý kiến cho rằng tỷ lệ thuế TNCN trên doanh thu cần được tính toán, điều chỉnh lại cho phù hợp với đặc điểm của một số loại thu nhập, hoạt động kinh doanh đặc thù như hoạt động cung cấp sản phẩm và dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số.
Hiện hành, thu nhập của cá nhân từ các hoạt động này đang chịu sự điều tiết như một số khoản thu nhập khác, trong khi đây là những khoản thu nhập có tính chất đặc thù nên cần có mức thuế suất phù hợp để đảm bảo sự bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, sự thống nhất của hệ thống chính sách thuế, đảm bảo phát huy được vai trò điều tiết, phân phối lại của chính sách thuế TNCN trong hệ thống thuế.
Mức thuế suất cụ thể cần được nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng, đảm bảo phát huy được một cách có hiệu quả vai trò của chính sách thuế TNCN trong hệ thống thuế, thực hiện điều tiết hợp lý thu nhập của cá nhân trong nền kinh tế.