Kiến nghị hướng dẫn xác định cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ trong công tác bồi thường nhà nước (Công văn 669) (Hình từ Internet)
Ngày 25/9/2025, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp ban hành Công văn 669/CĐK&BTNN-QLBTNN về việc trả lời kiến nghị liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.
![]() |
Công văn 669/CĐK&BTNN-QLBTNN |
Thực hiện nhiệm vụ rà soát khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi có một số kiến nghị liên quan đến lĩnh vực bồi thường của Nhà nước. Đối với các kiến nghị này, Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước (Cục ĐKGDBĐ&BTNN) có ý kiến như sau:
(1) Kiến nghị thứ nhất:
“Tại khoản 7 Điều 3 quy định, tuy nhiên pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể việc xác định “cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ”, gây lúng túng và chưa thống nhất trong việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường. Hướng dẫn cụ thể việc xác định cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ”.
Về kiến nghị này, Cục ĐKGDBĐ&BTNN có ý kiến như sau:
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã có những quy định cụ thể quy định về cơ quan giải quyết bồi thường. Theo đó, tại khoản 7 Điều 3 quy định giải thích từ ngữ về “cơ quan giải quyết bồi thường”, Chương IV Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 (từ Điều 33 đến Điều 39) đã quy định cụ thể về cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính (Điều 33), cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 34, 35, 36), cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính (Điều 37), cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án hình sự (Điều 38), cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự (Điều 39). Ngoài ra, Điều 40 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 và Điều 32, 33 Nghị định 68/2018/NĐ-CP đã quy định về việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong một số trường hợp cụ thể.
Như vậy, có thể thấy quy định hiện hành đã hướng dẫn chi tiết về việc xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong từng lĩnh vực cụ thể.
(2) Kiến nghị thứ hai:
“Tại Điều 60 và Điều 61 Luật TNBTCNN quy định trên địa bàn tỉnh chỉ có một cơ quan là Sở Tài chính có trách nhiệm lập dự toán kinh phí bồi thường và cấp phát kinh phí bồi thường; việc tạm ứng, quyết toán kinh phí bồi thường phải thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 44 và Điều 63 Luật TNBTCNN, dẫn tới khi phát sinh vụ việc, các cơ quan giải quyết bồi thường đặc biệt là cơ quan ở cấp huyện hoặc cấp xã không chủ động, thiếu sự linh hoạt khi chi trả cho người yêu cầu bồi thường. Sửa đổi quy định tại Điều 60 và 61 Luật TNBTCNN theo hướng quy định linh hoạt cho các cơ quan ở địa phương trong lập dự toán kinh phí bồi thường, cấp phát kinh phí bồi thường; việc tạm ứng, quyết toán kinh phí bồi thường”.
Về kiến nghị này, Cục ĐKGDBĐ&BTNN có ý kiến như sau:
Quy định hiện nay của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 về kinh phí bồi thường, lập dự toán kinh phí bồi thường và quyết toán kinh phí bồi thường theo hướng đơn giản, nhanh gọn, tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại nhanh chóng nhận được tiền bồi thường. Việc lập dự toán, quyết toán giao cho Sở Tài chính thực hiện bởi trên địa bàn địa phương, Sở Tài chính là cơ quan nắm được số tiền bồi thường hàng năm của địa phương. Mặt khác, không phải cơ quan nào cũng phát sinh vụ việc yêu cầu bồi thường trong năm. Do vậy nếu giao cho từng cơ quan thực hiện việc lập dự toán, quyết toán kinh phí bồi thường sẽ gây khó khăn cho các cơ quan này.
Xem thêm tại Công văn 669/CĐK&BTNN-QLBTNN ban hành ngày 25/9/2025 về việc trả lời kiến nghị liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.