Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi): Lý do sửa đổi là gì?

09/12/2024 11:00 AM

Tại Dự thảo Tờ trình Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi), Bộ Nội vụ đã đưa ra các cơ sở cho việc xây dựng dự án Luật này.

Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi): Lý do sửa đổi là gì?

Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi): Lý do sửa đổi là gì? (Hình từ Internet)

Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi): Lý do sửa đổi là gì?

Cụ thể tại Dự thảo Tờ trình Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi), Bộ Nội vụ đã đưa ra các cơ sở cho việc xây dựng dự án Luật này như sau:

(1) Cơ sở chính trị:

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo”.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội là “Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục  vụ người dân, doanh nghiệp”; “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng.

Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức”.

- Nghị quyết 27-NQ/TW đặt ra mục tiêu “Tập trung phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền hành chính quốc gia; cải cách mạnh mẽ chế độ công vụ, công chức; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao bằng sản phẩm cụ thể và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp”; đồng thời, đặt gia giải pháp “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: Tổ chức bộ máy; công vụ, công chức; hành chính điện tử và chuyển đổi số”.

(2) Cơ sở pháp lý:

- Kế hoạch 81/KH-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công Chính phủ nghiên cứu, rà soát Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các luật có liên quan.

- Nghị quyết 98/NQ-CP của Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và các địa phương rà soát, nghiên cứu đề xuất xây dựng Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) (trước năm 2026).

(3) Cơ sở thực tiễn:

Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010; được sửa đổi, bổ sung năm 2019 tại Luật số 52/2019/QH14 ngày 25/11/2019 (sau đây gọi chung là Luật Cán bộ, công chức).

Sau hơn 15 năm thực hiện, Luật Cán bộ, công chức đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước các cấp, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hiệu quả.

Việc thực hiện các quy định của Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành góp phần quan trọng thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, sau 05 năm được sửa đổi, bổ sung, một số quy định của Luật Cán bộ, công chức bộc lộ hạn chế nhất định, cần tiếp tục được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng bộ với các quy định mới của Đảng, cụ thể như sau:

Một là, một số chủ trương mới của Đảng về công tác cán bộ cần tiếp tục thể chế hóa, bảo đảm thực hiện bằng quy định của luật, bao gồm: (1) Cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; (2) Cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; (3) Cơ chế sàng lọc, thay thế cán bộ, công chức, viên chức thiếu trách nhiệm, năng lực hạn chế, uy tín thấp.

Hai là, một số quy định của Luật chưa thống nhất, đồng bộ với quy định của Đảng, như:

- Về thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức: Điều 65 Luật Cán bộ, công chức quy định 5 nhóm nội dung quản lý cán bộ, công chức. Đối chiếu quy định tại điểm 28.1.2 về công tác quản lý cán bộ tại Quy định 24-QĐ/TW ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về thi hành Điều lệ Đảng và Điều 4 Quy định 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, Luật Cán bộ, công chức chưa quy định thẩm quyền về “phân cấp quản lý”, “giới thiệu ứng cử”, “tái cử”, “cho thôi giữ chức vụ”, “kiểm soát quyền lực”.

- Về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức:

Luật Cán bộ, công chức chưa có quy định về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ tương ứng với quy định của Đảng tại Quy định 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

Quy định về thời hạn không thực hiện việc nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn đối với cán bộ, công chức bị kỷ luật tại Luật Cán bộ, công chức chưa đồng bộ với Quy định 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị:

Tại khoản 7 Điều 18 Quy định 80-QĐ/TW quy định: Cán bộ bị kỷ luật thì không phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào chức vụ cao hơn chức vụ khi bị kỷ luật trong khoảng thời gian 12 tháng đối với hình thức kỷ luật Khiển trách, 30 tháng đối với hình thức kỷ luật Cảnh cáo và 60 tháng đối với hình thức kỷ luật Cách chức (tính từ ngày ký quyết định kỷ luật). Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 82 Luật Cán bộ, công chức quy định: cán bộ, công chức bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo hoặc hạ bậc lương thì không thực hiện việc nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn trong thời hạn 12 tháng; bị kỷ luật bằng hình thức giáng chức hoặc cách chức thì không thực hiện việc nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm trong thời hạn 24 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực.

- Về thẩm quyền quyết định biên chế công chức:

Tại Khoản 2 Điều 4 Quy định 70-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về quản lý biên chế của hệ thống chính trị quy định Bộ Chính trị quyết định tổng biên chế và biên chế dự phòng của hệ thống chính trị theo nhiệm kỳ 5 năm và khi cần thiết; quyết định giao biên chế cho các cơ quan, tổ chức được giao thẩm quyền quản lý biên chế.

Tại Điều 66 Luật Cán bộ, công chức quy định: (1) Thẩm quyền quyết định biên chế cán bộ được thực hiện theo quy định của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. (2) Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định biên chế công chức của Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. (3) Chủ tịch nước quyết định biên chế công chức của Văn phòng Chủ tịch nước. (4) Chính phủ quyết định biên chế công chức của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cấp tỉnh. (5) Căn cứ vào quyết định chỉ tiêu biên chế được Chính phủ giao, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. (6) Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội.

- Về đánh giá, xếp loại chất lượng đối với cơ quan, tổ chức: Luật Cán bộ, công chức chưa có quy định về đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ quan, đơn vị, chưa đồng bộ với Quy định 124-QĐ/TW ngày 04/10/2023 của Bộ Chính trị về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Trong khi đó Luật Cán bộ, công chức quy định mức xếp loại chất lượng của cá nhân không cao hơn mức xếp loại chất lượng của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách;

Ba là, một số quy định của Luật Cán bộ, công chức chưa đồng bộ, thống nhất với pháp luật chuyên ngành khác, cụ thể:

- Về xác định đối tượng cán bộ, công chức:

Tại Điều 37 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định đối tượng cán bộ, công chức trong cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, Điều 2 Luật Cán bộ, công chức không quy định đối tượng cán bộ, công chức tại cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Khoản 8 Điều 18 Luật Dân quân tự vệ năm 2019 quy định chức danh “Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã”. Điểm b khoản 3 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức quy định chức danh “Chỉ huy trưởng Quân sự”.

- Thực hiện quy định đối với công chức chuyên ngành:

Tại khoản 4 Điều 40, khoản 4 Điều 41 Luật Thanh tra năm 2022 quy định một trong những tiêu chuẩn bổ nhiệm ngạch thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp là trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch hoặc được xét nâng ngạch hoặc được xét chuyển ngạch theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Theo đó, điều kiện dự thi nâng ngạch và xét nâng ngạch thanh tra viên được thực hiện đồng thời theo quy định của Luật Cán bộ, công chứcLuật Thanh tra năm 2022. Theo đó, một số quy định tại các văn bản hướng dẫn (Nghị định 138/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 116/2024/NĐ-CPNghị định 43/2023/NĐ-CP) không thống nhất gây nên vướng mắc trong tổ chức thực hiện.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về ngạch chấp hành viên, gồm: Chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao cấp (khoản 1 Điều 17); quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm ngạch chấp hành viên (Điều 18).

Việc tổ chức thi nâng ngạch công chức chấp hành viên thi hành án dân sự hiện nay vừa được thực hiện đồng thời theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về cán bộ, công chức; trong khi đó hướng dẫn tại các văn bản quy định chi tiết chưa bảo đảm thống nhất (Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Nghị định 33/2020/NĐ-CPNghị định 138/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 116/2024/NĐ-CP), từ đó dẫn đến vướng mắc trong tổ chức thực hiện các Luật.

Bốn là, thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới chưa được pháp luật quy định, như: (1) Các quy định cụ thể về đạo đức công vụ; biểu hiện hành vi và chế tài xử lý đối với cán bộ, công chức vi phạm quy định về đạo đức công vụ; (2) Việc áp dụng cơ chế quản lý thống nhất giữa cán bộ, công chức cấp huyện trở lên và cán bộ, công chức cấp xã; (3) Quy định về việc tiếp nhận vào công chức, trong đó cần bổ sung đối tượng là sinh viên tốt nghiệp hệ cử tuyển; (4) Chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý sau khi bị kỷ luật.

Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Do vậy, yêu cầu và cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cần được nghiên cứu, quy định phù hợp với thực tiễn quản lý trong giai đoạn hiện nay.

Từ những căn cứ chính trị, pháp lý và để khắc phục những bất cập trong thực tiễn nêu trên thì việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chứcLuật Viên chức là cần thiết.

Chia sẻ bài viết lên facebook 409

Các tin khác
Điện thoại: (028) 3930 3279 (06 lines)
E-mail: info@ThuVienPhapLuat.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty cổ phần LawSoft. Giấy phép số: 32/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 15/05/2019 Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà An Phú Plaza, 117-119 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079