Bộ tư pháp trả lời kiến nghị về Bộ luật Dân sự 2015 (Hình từ Internet)
Bộ Tư pháp ban hành Công văn 6350/BTP-PLDSKT năm 2025 trả lời kiến nghị về Bộ luật Dân sự 2015 gồm những nội dung cụ thể như sau:
(1) Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự quy định “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”. Điểm đ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự quy định “Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi”.
Quy định nêu trên là không thống nhất giữa quy định của 2 điều Luật trong trường hợp vợ hoặc chồng đề nghị thay đổi thành tên nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân.
- Theo Bộ Tư pháp, quy định tại khoản 3 Điều 26 không mẫu thuẫn với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 28 BLDS. Lý do: khoản 3 Điều 26 BLDS quy định về quyền đặt tên của công dân Việt Nam; điểm đ khoản 1 Điều 28 quy định về quyền thay đổi tên của công dân Việt Nam trong trường hợp có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài. Bên cạnh đó, điểm đ khoản 1 Điều 28 BLDS chỉ áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân.
(2) Quy định về thời hiệu khởi kiện còn có sự chồng chéo và khác biệt giữa Bộ luật Dân sự, Luật Trọng tài Thương mại và các văn bản pháp luật khác. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện và quy định rõ về các trường hợp/nguyên tắc ưu tiên áp dụng thời hiệu khởi kiện tại các bộ luật, luật để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật liên quan.
- Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam và Bộ Công Thương trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Luật Thương mại năm 2005 theo hướng bỏ quy định về thời hiệu khởi kiện, thực hiện thống nhất theo quy định tại Điều 429 BLDS 2015.
(3) Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015") về Hợp đồng theo mẫu quy định như sau: "Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo thực tế, các bên có thể có các cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng quy định nêu trên vào việc giải thích các điều khoản của hợp đồng trên thực tế. Cụ thể, khi hợp đồng theo mẫu có điều khoản loại trừ hiệu lực của chính khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 (Ví dụ: Hợp đồng theo mẫu có nội dung “Các bên đồng ý rằng các khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 sẽ không được áp dụng và đồng ý bị ràng buộc bởi các điều khoản và điều kiện liên quan đến trách nhiệm và bồi thường như được quy định trong Hợp đồng này", một số cách hiểu như sau có thể được áp dụng: Cách hiểu 1: Điều khoản loại trừ hiệu lực của Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 được xem là có hiệu lực. Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 có cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, việc các bên cùng ký kết hợp đồng mẫu có nội dung thỏa thuận loại trừ áp dụng Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 cũng có thể được coi là một “thỏa thuận khác” giữa các bên và do đó, điều khoản loại trừ khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 được xem là có hiệu lực. Cách hiểu 2: Điều khoản loại trừ hiệu lực của Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 là trái luật và không có hiệu lực. Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015 là một quy định có tính chất bảo vệ, nhằm ngăn chặn việc lạm dụng vị thế của bên đưa ra hợp đồng mẫu. Do đó, mặc dù hợp đồng theo mẫu có nội dung loại trừ áp dụng Khoản 3 Điều 405 đều phải được coi là trái với mục đích và tinh thần của pháp luật, và do đó bị xem là không có hiệu lực. Sự tồn tại của hai cách hiểu trên tạo ra sự không chắc chắn về mặt pháp lý và gây khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế.
Khoản 3 Điều 405 BLDS năm 2015 là sự cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS và khoản 2 Điều 401 BLDS. Về nguyên tắc, điều khoản tại hợp đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 405 là vô hiệu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về việc công nhận hiệu lực của điều khoản này (trường hợp vô hiệu tương đối, điều khoản có hiệu lực khi các bên thỏa thuận chấp nhận).
Như vậy, hợp đồng theo mẫu được giải thích phụ thuộc vào tình huống, bối cảnh cụ thể. Trường hợp hợp đồng theo mẫu áp dụng với người tiêu dùng (bên có vị thế yếu hơn) thì Điều 25 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã quy định về điều khoản không được phép quy định trong hợp đồng theo mẫu với người tiêu dùng.
- Theo Bộ Tư pháp, Khoản 3 Điều 405 BLDS năm 2015 là sự cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS và khoản 2 Điều 401 BLDS. Về nguyên tắc, điều khoản tại hợp đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 405 là vô hiệu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về việc công nhận hiệu lực của điều khoản này (trường hợp vô hiệu tương đối, điều khoản có hiệu lực khi các bên thỏa thuận chấp nhận).
Như vậy, hợp đồng theo mẫu được giải thích phụ thuộc vào tình huống, bối cảnh cụ thể. Trường hợp hợp đồng theo mẫu áp dụng với người tiêu dùng (bên có vị thế yếu hơn) thì Điều 25 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã quy định về điều khoản không được phép quy định trong hợp đồng theo mẫu với người tiêu dùng.
(4) Tại khoản 3, điều 26, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Sở Tư pháp “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng Thanh Hóa dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”. Tuy nhiên, đối với những trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, mặc dù cha mẹ lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho trẻ em nhưng do trẻ em có một bên cha hoặc mẹ là người nước ngoài nên ngoài việc lựa chọn theo họ cha hoặc họ mẹ thì cha mẹ trẻ thường muốn trẻ có tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài, ví dụ như các tên: Trần John, Lê Anna.
Quy định này đã được Quốc hội thảo luận và lựa chọn để đảm bảo giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam tại tên gọi của công dân Việt Nam. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp xin ghi nhận và sẽ nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự.