Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào?

17/11/2025 14:01 PM

Sau đây là nội dung cho biết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào cho đúng.

Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào?

Vượt quá phòng vệ chính đáng là gì?

Theo khoản 2 Điều 22 thì vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Nếu phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì được xem là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ ngày 15/11/2025, Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 51 và điều 52 của bộ luật hình sự, chính thức có hiệu lực.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự gồm:

- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

- Phạm tội do lạc hậu;

- Người phạm tội là phụ nữ có thai;

- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

- Người phạm tội tự thú;

- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Theo đó, “Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51  Bộ luật Hình sự được hiểu là trường hợp người phạm tội để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức mà thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi chống trả không tương xứng, có sự chênh lệch lớn so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Để xác định hành vi chống trả có “rõ ràng quá mức cần thiết” hay không phải xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những tình tiết, sự kiện liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi chống trả như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại mà hành vi xâm hại có thể gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp thực hiện; nhân thân người xâm hại; tương quan lực lượng, cường độ, mức độ của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ; bối cảnh, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra sự việc...

Ví dụ: Phạm Văn T dùng dao uy hiếp và đấm vào mặt Nguyễn Văn A. Để bảo vệ mình, A đã giằng co với T, cướp dao và ném xuống sông. Khi T bỏ chạy, A vẫn đuổi theo và lấy đá đập nhiều lần vào người T dẫn đến tổn thương cơ thể tỷ lệ 25%. Hành vi gây thương tích của A đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng tình tiết giảm nhẹ khi nào?

Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự căn cứ quyết định hình phạt được quy định như sau:

- Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của  Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.

Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ là yếu tố để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

Khi nào không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ?

Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Bộ luật Hình sự thì các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Bùi Nguyễn Duy Khánh

Chia sẻ bài viết lên facebook 2,781

Các tin khác
Điện thoại: (028) 3930 3279 (06 lines)
E-mail: info@ThuVienPhapLuat.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty cổ phần LawSoft. Giấy phép số: 32/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 15/05/2019 Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà An Phú Plaza, 117-119 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079