Nghị quyết 204/2025/QH15 giảm thuế GTGT đến hết năm 2026 (Hình từ internet)
Tại Thông báo 1492/TTTN-XD ngày 26/6/2025 của Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước về việc thông báo giảm thuế giá trị gia tăng có đề cập đến Nghị quyết giảm thuế GTGT đến hết năm 2026 như sau:
Ngày 17 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 204/2025/QH15 về giảm thuế giá trị gia tăng. Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 204/2025/QH15 quy định: Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 3 Điều 9 của Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng). Nghị quyết 204/2025/QH15 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2025 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2026.
Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước trân trọng thông báo nội dung Nghị quyết số 204/2025/QH15 ngày 17 tháng 6 năm 2025 của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng tới các thương nhân để các thương nhân chủ động áp dụng, tỉnh toán, quyết định giá bán các mặt hàng xăng dầu phù hợp với thời điểm Nghị quyết số 204/2025/QH15 có hiệu lực thi hành.
Như vậy, Nghị quyết giảm thuế GTGT đến hết năm 2026 là Nghị quyết 204/2025/QH15.
Căn cứ Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng 2024 quy định về người nộp thuế như sau
- Tổ chức, hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh).
- Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).
- Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ (kể cả trường hợp mua dịch vụ gắn với hàng hóa) của tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng 2024 ; tổ chức sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mua hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ dầu khí và khai thác dầu khí của tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam.
- Nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân tại Việt Nam (sau đây gọi là nhà cung cấp nước ngoài); tổ chức là nhà quản lý nền tảng số nước ngoài thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp nước ngoài; tổ chức kinh doanh tại Việt Nam áp dụng phương pháp tính thuế giá trị gia tăng là phương pháp khấu trừ thuế mua dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thông qua kênh thương mại điện tử hoặc các nền tảng số thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp nước ngoài.
- Tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà quản lý nền tảng số có chức năng thanh toán thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên sàn thương mại điện tử, nền tảng số.
- Chính phủ quy định chi tiết các khoản 1, 4 và 5 Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng 2024; quy định về người nộp thuế trong trường hợp nhà cung cấp nước ngoài cung cấp dịch vụ cho người mua là tổ chức kinh doanh tại Việt Nam áp dụng phương pháp khấu trừ thuế quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng 2024.