Quy định về thu hồi vốn tạm ứng dự án đầu tư công theo Nghị định 254/2025 (Hình từ Internet)
Tại khoản 5 Điều 9 Nghị định 254/2025/NĐ-CP thu hồi vốn tạm ứng dự án đầu tư công như sau:
(i) Đối với các trường hợp không thuộc (ii), (iii), (iv): vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng (được quy định cụ thể trong hợp đồng) hoặc của dự toán được duyệt đối với công việc không thực hiện theo hợp đồng (trên cơ sở đề nghị của chủ đầu tư), đảm bảo thu hồi hết khi giá trị giải ngân đạt 80% giá trị hợp đồng hoặc dự toán. Trường hợp có nhiều nhà thầu chính cùng tham gia liên danh, vốn tạm ứng đảm bảo thu hồi hết khi giá trị giải ngân đạt 80% giá trị phần hợp đồng tương ứng đối với từng nhà thầu. Cơ quan thanh toán căn cứ bảng tổng hợp thông tin hợp đồng, bảng tổng hợp thông tin dự toán để thực hiện thu hồi vốn tạm ứng.
(ii) Đối với bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: sau khi chi trả cho người thụ hưởng, chủ đầu tư, đơn vị, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tập hợp chứng từ, làm thủ tục thanh toán và thu hồi tạm ứng trong thời hạn chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày tạm ứng tiền tại cơ quan thanh toán vốn đầu tư, không chờ đến khi hoàn thành toàn bộ phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mới làm thủ tục thu hồi vốn tạm ứng.
Đối với chi phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: chủ đầu tư, đơn vị, tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư lập bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành (Mẫu số 03.a/TT) gửi cơ quan thanh toán làm thủ tục thu hồi vốn tạm ứng. Chủ đầu tư, đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp pháp của giá trị đề nghị thanh toán; trường hợp tổng số đã thanh toán lớn hơn số quyết toán chi phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hằng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt (nếu có), chủ đầu tư, đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có trách nhiệm nộp lại ngân sách nhà nước phần chênh lệch.
(iii) Đối với chi phí quản lý dự án: chủ đầu tư, ban quản lý dự án lập bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành (Mẫu số 03.a/TT), bảng phân bổ chi phí quản lý dự án (Mẫu số 09/QLDA) (trường hợp chủ đầu tư, ban quản lý dự án trực tiếp quản lý nhiều dự án) gửi cơ quan thanh toán làm thủ tục thu hồi vốn tạm ứng. Chủ đầu tư, ban quản lý dự án không phải gửi chứng từ chi, hóa đơn mua sắm đến cơ quan thanh toán và chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp pháp của giá trị khối lượng hoàn thành và giá trị đề nghị thanh toán theo dự toán được duyệt.
Bảng phân bổ chi phí quản lý dự án (trong trường hợp chủ đầu tư, ban quản lý dự án trực tiếp quản lý nhiều dự án) được chủ đầu tư, ban quản lý dự án lập định kỳ hằng quý hoặc 06 tháng và hết năm kế hoạch.
Bảng phân bổ chi phí quản lý dự án (trong trường hợp chủ đầu tư, ban quản lý dự án trực tiếp quản lý nhiều dự án) được chủ đầu tư, ban quản lý dự án lập định kỳ hằng quý hoặc 06 tháng và hết năm kế hoạch.
(iv) Đối với hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị không phải là hợp đồng xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng: căn cứ vào bảng thông tin về hợp đồng do chủ đầu tư lập và chịu trách nhiệm, đảm bảo thu hồi hết vốn tạm ứng khi khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng.
Đồng thời, tại điểm d khoản 6 Điều 9 quy định Nghị định 254/2025/NĐ-CP Thời hạn thu hồi vốn tạm ứng như sau:
(i) Đối với các công việc của dự án thực hiện theo hợp đồng: vốn tạm ứng quá hạn thu hồi sau 03 tháng kể từ thời điểm phải thu hồi hết số vốn tạm ứng theo quy định tại hợp đồng mà nhà thầu chưa thực hiện hoặc khi phát hiện nhà thầu sử dụng sai mục đích, chủ đầu tư có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thanh toán để thu hồi hoàn trả vốn đã tạm ứng cho ngân sách nhà nước. Trường hợp chủ đầu tư chưa thu hồi, cơ quan thanh toán có văn bản đề nghị chủ đầu tư thu hồi của nhà thầu hoặc đề nghị chủ đầu tư yêu cầu tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng theo nghĩa vụ bảo lãnh khi nhà thầu vi phạm cam kết với chủ đầu tư về việc sử dụng vốn tạm ứng.
(ii) Đối với công việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
Trường hợp người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ hoặc trường hợp đang có tranh chấp, đơn vị, tổ chức làm nhiệm vụ tổ chức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chuyển toàn bộ số tiền tạm ứng về tài khoản tiền gửi của tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mở tại ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo lãi suất không kỳ hạn, đồng thời báo cáo chủ đầu tư về số tiền gửi tại Ngân hàng thương mại nêu trên cụ thể theo từng quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của từng dự án, số tiền tương ứng với tên chủ sở hữu không nhận tiền hoặc đang có tranh chấp. Chủ đầu tư, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác định số tiền được phép gửi tại ngân hàng thương mại trong trường hợp người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ hoặc trường hợp đang có tranh chấp.
Đối với số tạm ứng (không thuộc trường hợp người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ hoặc trường hợp đang có tranh chấp), vốn tạm ứng quá hạn thu hồi sau 03 tháng kể từ thời điểm tạm ứng vốn chưa thực hiện chi trả cho người thụ hưởng, chủ đầu tư có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thanh toán yêu cầu tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chuyển toàn bộ số dư tạm ứng về tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư tại cơ quan thanh toán để thuận tiện cho việc thanh toán và thu hồi vốn tạm ứng. Sau thời hạn trên, trường hợp tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa chuyển toàn bộ số tiền dư tạm ứng quá hạn về tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư tại cơ quan thanh toán thì trên cơ sở đề nghị của chủ đầu tư, cơ quan thanh toán được phép trích từ tài khoản tiền gửi của tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mở tại cơ quan thanh toán vào tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư tại cơ quan thanh toán và thông báo cho tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Sau thời hạn 01 năm kể từ ngày chuyển tiền về tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư tại cơ quan thanh toán mà chưa thực hiện chi trả cho người thụ hưởng, chủ đầu tư có trách nhiệm hoàn trả vốn đã tạm ứng cho ngân sách nhà nước. Trường hợp chủ đầu tư không làm thủ tục nộp lại ngân sách nhà nước thì cơ quan thanh toán được phép trích từ tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư để nộp ngân sách nhà nước, giảm số vốn đã tạm ứng cho dự án và thông báo cho chủ đầu tư.
(iii) Đối với các công việc khác thực hiện không thông qua hợp đồng, vốn tạm ứng chưa thu hồi nếu quá thời hạn 06 tháng kể từ thời điểm tạm ứng mà chủ đầu tư chưa thu hồi vốn tạm ứng, cơ quan thanh toán có văn bản đề nghị chủ đầu tư hoàn trả số vốn đã tạm ứng, trừ trường hợp có văn bản của cấp có thẩm quyền (người phê duyệt dự toán) cho phép kéo dài thời hạn thu hồi vốn tạm ứng để hoàn thành các khối lượng do các nguyên nhân khách quan hoặc trường hợp tạm ứng chi phí quản lý dự án cho các ban quản lý dự án chuyên ngành, khu vực. Sau thời hạn 03 tháng kể từ thời điểm phải hoàn trả số vốn đã tạm ứng mà chủ đầu tư chưa thực hiện hoàn trả thì cơ quan thanh toán được phép trích từ tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư để thu về ngân sách nhà nước, giảm số vốn đã tạm ứng cho dự án và thông báo cho chủ đầu tư.
Xem thêm tại Nghị định 254/2025/NĐ-CP.