Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa

28/11/2025 18:20 PM

Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa.

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa (Hình ảnh từ Internet)

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa (Hình ảnh từ Internet)

Ngày 30/9/2025, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về thẩm quyền của Tòa án tại Điều 30 và Điều 31 Luật Tố tụng hành chính 2015.

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa

Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 05/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn xử lý các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa như sau:

- Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án nhân dân khu vực giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước (sau đây gọi là cơ quan, tổ chức khác) hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao gồm:

+ Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;

+ Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều này;

+ Quyết định hành chính được ban hành theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về vụ án hành chính.

Ví dụ: Sau khi Bản án hành chính có hiệu lực pháp luật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B theo đúng bản án. Sau đó, bà C cho rằng việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà và có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Trường hợp này, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A cấp theo bản án hành chính là một quyết định hành chính mới nên Tòa án phải thụ lý vụ án hành chính mới và giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Quyết định hành chính hướng dẫn tại khoản 1 Điều này được thể hiện dưới dạng văn bản giấy hoặc văn bản điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

- Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án nhân dân khu vực giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật mà người khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng. Việc xác định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:

+ Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công, ủy quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó.

Ví dụ: Ủy ban nhân dân xã X có thẩm quyền xác nhận tình trạng sạt lở đất theo Nghị định 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp, phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực đất đai. Ông Nguyễn Văn A nộp Đơn đề nghị xác nhận tình trạng sạt lở đất để làm thủ tục đăng ký biến động đất đai tại Ủy ban nhân dân xã X nhưng bà Trần Thị C, cán bộ của Ủy ban nhân dân xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A với lý do không đủ điều kiện để được xác nhận tình trạng sạt lở nhưng không nêu rõ căn cứ pháp lý. Trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã X mà không phải là hành vi hành chính của bà Trần Thị C;

+ Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thì việc thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là hành vi hành chính của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, ủy quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện.

Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H là người có thẩm quyền tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Trần Văn D theo quy định tại khoản 3 Điều 89 Luật Đất đai 2024 và điểm b khoản 1 Điều 15 Nghị định 151/2025/NĐ-CP, nhưng đã ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H trực tiếp tổ chức việc cưỡng chế. Trong trường hợp này, việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đối với ông Trần Văn D là hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H mà không phải là hành vi hành chính của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H;

+ Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, không phụ thuộc vào việc nhiệm vụ, công vụ đó được phân công, ủy quyền, ủy nhiệm cho người cụ thể nào trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện.

Ví dụ: Cơ quan đăng ký kinh doanh xã A có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh được thành lập trong địa giới hành chính cấp xã theo quy định của pháp luật. Hộ kinh doanh N đã nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ nhưng quá thời hạn mà pháp luật quy định, người được phân công, ủy quyền, ủy nhiệm thực hiện việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không thực hiện việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh N. Trường hợp này, việc không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Hộ kinh doanh N là hành vi hành chính của Cơ quan đăng ký kinh doanh xã A;

+ Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi đó là hành vi hành chính của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ đã phân công, ủy quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện.

Ví dụ: Chị Nguyễn Thị A nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký khai sinh cho con tại cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cấp giấy khai sinh đã ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Quá thời hạn pháp luật quy định mà Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không thực hiện việc đăng ký, không cấp Giấy khai sinh, cũng không có văn bản trả lời hay nêu lý do. Trường hợp này, hành vi không thực hiện nhiệm vụ đăng ký khai sinh đúng thời hạn được xác định là hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

Xem thêm Nghị quyết 05/2025/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 30/9/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2025.

Chia sẻ bài viết lên facebook 5

Các tin khác
Điện thoại: (028) 3930 3279 (06 lines)
E-mail: info@ThuVienPhapLuat.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty cổ phần LawSoft. Giấy phép số: 32/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 15/05/2019 Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà An Phú Plaza, 117-119 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079